Hồ Chí Minh lừa gạt ḷng yêu nước của nhân dân dưới thời chánh phủ Trần Trọng Kim (1945)greenspun.com : LUSENET : Vietnamese American Society : One Thread |
Để ḿnh trích bài viết này của tác giả Hứa Hoành, nói về tên cáo già dâm dục Hồ Chí Minh mà những công trạng hay lợi dụng ḷng yêu nước của nhân dân dưới thời chánh phủ Trần Trọng Kim. Đây là bài viết ḿnh cho là hay, do đó ḿnh xin post lên đây để cho những trẻ như chúng ta t́m hiểu thêm về lịch sử xảy ra trong năm 1945. Cảm ơn quí vị.
-------------------
THÀNH TÍCH CHÍNH PHỦ TRẦN TRỌNG KIM
Hứa Hoành
Là kẻ sĩ, có nếp sống đạo đức, cụ Trần Trọng Kim làm chính trị theo vương đạo. Đối thủ của cụ, Hồ Chí Minh và những phần tử lănh đạo cộng sản là đạo tặc, làm chính trị bá đạo. Đạo tặc thắng đạo đức, bá đạo thắng vương đạo trong nhứt thời.
Lịch sử rất công bằng, sẽ thẳng thắn vạch mặt chỉ tên ai v́ dân v́ nước, ai phản quốc có tội với đồng bào? Cộng sản hiện nguyên h́nh là tay sai của quốc tế cộng sản, không thuộc thành phần dân tộc, cắt đất, bán nước cho Tàu....Trong khi người quốc gia thất thế, bị VC chửi bới, mạt sát, nhưng chưa bao giờ phản lại quyền lợi quốc gia, lại bảo vệ từng tấc đất của tổ tiên. Thượng nghị sĩ tiểu bang Arizona, Mc Cain nói thẳng vào mặt VC: “Bọn xấu đă thắng trong trận chiến tranh vừa qua.”
Người quốc gia chính thống, có chính nghĩa, cộng sản là tay sai quốc tế, ngụy triều, sự thật đă rơ như ban ngày.”
THÀNH TÍCH CHÍNH PHỦ TRẦN TRỌNG KIM (17/4/1945 - 18/8/1945)
Không ai phủ nhận chính phủ Trần Trọng Kim là sản phẩm của Nhựt, do Nhựt đỡ đầu, chỉ tồn tại vỏn vẹn có 4 tháng, trong điều kiện cực kỳ khó khăn, nhưng đă làm được nhiều việc có ích cho quốc gia dân tộc, ảnh hưởng măi đến ngày nay. Lịch sử của người quốc gia từ trước tới nay, viết về sự kiện nầy rất giản lược. Ban đầu “tạm thời không nhắc tới các sự kiện lịch sử từ năm 1945”, nhưng rồi sau, v́ hoàn cảnh chiến tranh Quốc Cộng mỗi ngày một leo thang, các chính phủ miền Nam xao lăng. Chính v́ thề, quốc dân đồng bào không thấy được những thành tích và sự quan trọng của các công cuộc được thực hiện dưới thời chính phủ Trần Trọng Kim. Nhờ sự chuẩn bị nầy mà khi Việt Minh cướp được chính quyền, thừa hưởng cái gia tài về tổ chức thanh niên, làm động lực mạnh mẽ trong công cuộc kháng chiến chống Pháp.
Trong hoàn cảnh hiện nay, việc cũ đă qua hơn nửa thế kỷ, thời gian đă lắng động, lại được ung dung tự do, không bị áp lực, mặc cảm, chúng ta cần có thái độ công bằng để nh́n một sự thật: “Không phải do ngoại bang dựng nên đều là phản động, có tội với quốc dân đồng bào.” Cũng không phải “thân Nhựt” là có tội, là bù nh́n “... Có công hay có tội là do hành động của triều đại đó đối với dân tộc và đất nước. Đảng CS từ trước đến nay chửi bới, mạt sát các chính phủ quốc gia thù nghịch với họ, bằng những lời lẽ thậm tệ, nhưng chính VC là con đẻ, là tay sai của QTCS, đă tuân lệnh ngoại bang, đem chủ nghĩa cộng sản áp đặt vào đất nước ta, tàn sát hàng triệu đồng bào vô tội, phá nát đất nước, luân thường đạo lư, làm cho đất nước ta nghèo nàn lạc hậu. Ngoài ra hiện nay (2001) VC c̣n cắt đất biên giới, hải đảo dâng cho Tàu, làm điều sỉ nhục cho tổ tiên dân tộc, th́ đó là công hay tội của CS?
Hơn nửa thế kỷ qua, CS không chứng minh được rằng chính phủ Trần Trọng Kim có làm điều ǵ có hại cho đất nước, dân tộc, có giết bất cứ một người dân nào v́ chống đối với chính phủ. Tuy nhiên tới bây giờ CS vẫn ngoan cố, vẫn ngụy biện trong lư luận, trong lịch sử. Họ sợ sự thật, sợ lẽ phải. Chế độ CS là chế độ giả dối, sống nhờ bạo lực, dối trá, và đàn áp để tồn tại.
Nếu kể các lư do đă đánh giá thấp chính phủ Trần Trọng Kim, xin nêu lên:
Thứ nhứt là khuynh hướng phù thịnh. Mỗi lần nhắc tới biến cố Nhựt đảo chính Pháp, và chính phủ Trần Trọng Kim, các người viết sử, các nhà nghiên cứu thường chú trọng đến hành động chớp nhoáng của Nhựt lật đổ Pháp (24 giờ), và “Việt Minh cướp chính quyền.”
Thứ hai do thiếu tài liệu, các sách sử viết về thời kỳ này, chỉ viết giản lược, sơ sài.
Thứ ba các nhà viết sử cộng sản luôn che giấu sự thật, những việc làm tốt đẹp của người quốc gia, bịa đặt tội trạng, mạt sát kẻ chiến bại... chỉ có mục đích đề cao công trạng cho đảng CS bằng cách thêu dệt, bịa đặt thêm nhiều sự kiện để tô vẽ “thành tích thần thánh” cho sự thành công của họ. V́ thế họ không nhắc tới những công lao, thành quả của chính phủ Trần Trọng Kim, mà chính họ đă được hưởng lợi sau đó.
Ông Trần Trọng Kim là một học giả khả kính, sinh năm 1883 và mất năm 1953, là người có cuộc sống đạo đức thanh bạch, hiện thân của kẻ sĩ c̣n sót lại. Tuy không đảng phái (Tưởng Vĩnh Kính, trong “Hồ Chí Minh tại Trung Quốc” trang 321 nói “Trần Trọng Kim thuộc đảng Việt Nam độc lập”), nhưng ông được tín đồ đạo Cao Đài ủng hộ nhiệt t́nh, mặc dù nhà cầm quyền Nhựt tại Đông Dương không đưa hoàng thân Cường Để lên ngôi vua như mong muốn. Là một tôn giáo mới, thành lập từ năm 1926 tại Nam Kỳ, đạo Cao Đài đă đóng góp một phần quan trọng trong công cuộc tranh đấu cho nền độc lập VN, cũng như đạo Ḥa Hảo. Năm 1936, giáo chủ Phạm Công Tắc tham gia công cuộc vận động cho chủ nghĩa dân tộc và độc lập VN, dưới sự bảo trợ của Nhựt Bản. Thời gian hoạt động bí mật trong tổ chức “Nội ứng nghĩa binh” và “Cận vệ quân” dưới danh nghĩa chính trị của “VN phục quốc đồng minh hội”, gọi tắt là “Phục Quốc Hội” do Kỳ Ngoại Hầu Cường Để làm minh chủ, tín đồ Cao Đài kỳ vọng ngài Cường Để sẽ về lên ngôi vua ở VN. Trong cuộc đảo chính đêm 9/3/45, các đội “Nội ứng nghĩa binh”, “Cận Vệ Quân” của Cao Đài đă đóng góp một phần lớn.
Tóm lược thành quả của chính phủ Trần Trọng Kim, nhà nghiên cứu sử Chính Đạo (Vũ Ngự Chiêu) viết: “....chỉ trong ṿng 4 tháng và dưới những điều kiện cực kỳ khó khăn, chính phủ Trần Trọng Kim đă xúc tiến những bước quan trọng để tiến tới một nền độc lập cho VN, Việt hóa một phần tổ chức hành chính thời thực dân Pháp, và thương thuyết để thống nhứt lănh thổ chính thức trước khi Việt Minh cướp chính quyền vào tháng 8 năm 1945.” (The other side of Vietnamese revolution”, page 14).
Trong hồi kư “Một cơn gió bụi”, chính tác giả Trần Trọng Kim viết về việc nầy như sau: “Chúng tôi hết sức theo đuổi mục đích là hợp nhất tất cả các phần tử quốc dân để củng cố độc lập của quốc gia, và gây mạnh cái tinh thần yêu nước trong mỗi giai tầng xă hội.
Chính phủ sẽ lập ra một “Kỷ niệm đài” để ghi công các bậc anh hùng v́ nói giống, sẽ t́m mọi cách để các chính khách c̣n phiêu lưu được trở về tổ quốc, sẽ xóa bỏ những h́nh án bất công, để những người ái quốc c̣n bị giam cầm trong lao ngục, có thể tùy tài sức mà tham dự vào công cuộc kiến thiết quốc gia.” (Trích “Tuyên cáo của Nội các Trần Trọng Kim”, Hồi kư Nam Đ́nh, trang 207).
Sau ngày 9/3/45, cơn sốt độc lập, tinh thần bài Pháp bùng lên mạnh mẽ chưa từng có. Khắp cả ba kỳ, đâu đâu người ta cũng nghe thấy dân chúng bàn tán về độc lập, tự do một cách công khai, không c̣n bí mật như trước. Chính phủ tích cực “Việt Nam hóa” nền hành chính do thực dân để lại, dùng tiếng Việt trong giáo dục, tạo cơ hội cho mọi người tham gia chính trị, nhứt là những thanh niên, trí thức thành thị, những người có hấp thụ ít nhiều văn hóa Tây phương tham dự. Trong khi đó, chính phủ Kim gần như bỏ quên các nông dân, thợ thuyền, phu phen, là thành phần chiếm đa số trong xă hội, đang bị nạn đói đe dọa do kinh tế khó khăn. V́ thế, có thể nói chính phủ Trần Trọng Kim kêu gọi đoàn kết quốc gia, nhưng ở hạ tầng xă hội gần như bỏ quên. Chiến tranh, nạn đói, sự nghèo khổ ở nông thôn gia tăng, làm cho t́nh thế khắp nơi càng ngày rơi vào t́nh trạng vô chính phủ để Việt Minh núp trong bóng tối, khai thác, lợi dụng, chờ cơ hội. Ba công tác khẩn cấp của chính phủ Trần Trọng Kim đáng ghi nhớ hơn cả là:
Xóa nạn quốc sĩ: Chế độ thực dân cai trị trên đất nước đă 80 năm, để lại nhiều tàn tích sỉ nhục miệt thị cả một dân tộc. Các địa danh “Bắc kỳ, Trung kỳ, Nam kỳ”, là những từ ngữ có tính cách kỳ thị, chia để trị của thực dân. Đổi tên nước từ “An nam” thành Việt Nam là biểu thị thái độ của dân tộc, nhắc nhở đến thời kỳ độc lập dưới triều vua Gia Long (năm 1801). Các tiếng “Bắc bộ, Trung bộ, Nam bộ”, sau nầy Việt Minh sử dụng phổ thông cho đến năm 1954.
Tuy nhiên, trong thời kỳ đầu (3/1945) khi chính phủ chưa thành h́nh, mỗi miền đều biểu lộ ư thức, dân tộc tính riêng: miền Bắc thích gọi ḿnh là “Đại Việt”, tên nước ta dưới thời nhà Trần, Lê, c̣n người dân miền Nam thích dùng hai chữ Việt Nam. Người gọi Việt Nam là “Empire du Việt Nam” (Đế quốc Việt Nam). Khi chính phủ Trần Trọng Kim chính thức ra mắt quốc dân (17/4/45), th́ cả nước thống nhứt dùng hai chữ Việt Nam. Măi đến ngày 2/6/45, mới có quốc kỳ chính thức là cờ quẻ Ly trong kinh Dịch, và quốc ca là bài Đăng đàn cung. Miền Nam trước đó, vẫn hát bài “Tiếng gọi Thanh Niên”, đă được hát trong cuộc biểu t́nh ngày 18/3/45, trước vườn Ông Thượng (Tao Đàn). Việc kế tiếp là đổi tên đường phố, công viên, tượng đài kỷ niệm mà thực dân Pháp đặt ra ở xứ nầy. Đốc lư Hà Nội hạ bệ tượng Paul Bert, Jean Dupuis, th́ CS lại cho dựng tượng Lenin, th́ ai là vong bản, ai phản quốc?
Tại Thuận Hóa (Huế) Lê Thái Tổ thay thế tên đường Jules Ferry, Trần Hưng Đạo thay cho Paul Bert... Ngoài ra chính phủ Trần Trọng Kim c̣n mở một chiến dịch đề cao các danh nhân, anh hùng liệt nữ có công với đất nước. Cũng chính chính phủ Trần Trọng Kim là người đặt viên đá đầu tiên trong vấn đề cải tổ giáo dục: mở khoa thi trung học bằng tiếng Việt đầu tiên. Bộ trưởng giáo dục Hoàng Xuân Hăn, cùng các công sự trong hoàn cảnh khó khăn, chỉ tập họp một số nhân tài ở Huế như các giáo sư Tạ Quang Bửu, Đào Duy Anh, Nguyễn Huy Bảo, Đoàn Nồng, Tôn Quang Phiết, Nguyễn Thúc Hào, Phạm Đ́nh Ái, Nguyễn Dương Đôn... soạn ra chương tŕnh trung học mới, hoàn toàn bằng tiếng Việt (xem quyển Nguyễn Quang Thắng “Khoa cử và giáo dục VN”, trang 316).
Chương tŕnh giáo dục bằng tiếng Việt nầy, tuy cải tổ trong một thời gian ngắn kỷ lục, nhưng ảnh hưởng sâu rộng đến mấy chục năm sau. Nhờ đó, chính phủ Hồ Chí Minh mới có phương tiện để phát động chương tŕnh “b́nh dân giáo dục”, tuy nhiên chỉ nặng về chính trị, nhẹ về thực chất.
Về thông tin báo chí, chính phủ Trần Trọng Kim đă mở đường cho tự do ngôn luận, tự do thông tin, nghị luận. Báo chí nở rộ từ Nam chí Bắc, công khai bộc lộ tinh thần yêu nước, đối kháng với thời kỳ nô lệ, mất chủ quyền.
Cứu đói: Đây là việc làm tích cực của chính phủ, kêu gọi ḷng vị tha, nhường cơm xẻ áo thực sự của người giàu. Nạn đói kéo dài từ cuối năm 1944 đến đầu năm Ất Dậu 1945, làm cho VN thêm kiệt quệ, bi thảm. Bao nhiêu tài lực, vật lực đều bị cả Pháp lẫn Nhựt ḱnh chống nhau thu giữ. Đối với chính quyền Nhựt, thủ tướng Trần Trọng Kim đă yêu cầu Nhựt hủy bỏ luật bắt buộc những điền chủ có 3 mẫu ruộng, phải bán lúa cho Nhựt. Thứ hai là khắp cả ba kỳ đều có phong trào “cứu tế”. Tại Bắc bộ, ông Nguyễn Văn Tố, được cử làm Hội trưởng hội “cứu tế miền Bắc”, từ ngày 24/3 đến 24/5/45, thu được số tiền 782.403 đồng, chi ra 593.836 đồng. Theo lịnh chính phủ trung ương, những người quá đói, tha phương cầu thực, được tập trung vào các trại đặc biệt để phát chẩn. Tại Trung bộ, có “Ủy ban trung ương tiếp trợ nạn nhân miền Bắc”, văn pḥng đặt tại số 43 đường Paul Bert, do bà Từ Cung làm chủ tịch. Tại Nam bộ, chỉ nội tháng 5, hơn 20 hội chẩn tế ra đời, và trong ṿng một tháng, các tổ chức trên quyên được 1 triệu 677 ngàn 886 đồng, mua và chuyển chở 1.592 tạ gạo ra Bắc cho nạn nhân vụ đói “ (Dẫn lại của Vũ Ngự Chiêu “The orther side......., trang 96).
Riêng chính quyền trung ương, chính phủ cử ông Bộ trưởng Tiếp Tế là Nguyễn Hữu Thí vào Sàig̣n, xúc tiến công việc tải gạo ra bắc. (Vũ Ngư Chiêu, sách đă dẫn, trang 94) Dưới đây là bài phỏng vấn ông Ngô Tiến Cảnh, ủy viên của Ban cứu tế trung ương Hà Nội vừa tới Sàig̣n.
...Chúng tôi vừa tới khách sạn Catinat, th́ vừa may gặp ông Ngô Tiến Cảnh ở cầu thang bước xuống. Tuy vội vàng, ông cũng vui ḷng tiếp chuyện chúng tôi mười phút ngay nơi pḥng khách của khách sạn. Muốn khỏi mất th́ giờ, chưa ngồi xuống, chúng tôi hỏi ngay:
Thưa ông, t́nh trạng cứu trợ tại miền Bắc ra sao? Xin ông làm ơn nói cho rơ?
Ông Ngô Tiến Cảnh trả lời chúng tôi một cách rơ ràng, khúc chiết:
Ngay từ đầu tháng Chạp năm ngoái (1944), những người nghèo khổ ở bốn tỉnh Ninh B́nh, Nam Định, Thái B́nh, Hà Nam, đă bắt đầu bỏ làng, vợ chồng con cái bồng bế đi tha phương cầu thực. Trong những bọn đó, đă thấy có đôi ba người đói chết ở dọc đường. Những thảm cảnh ấy diễn ra hàng ngày càng nhiều, nhứt là từ hồi đầu tháng Hai ta. Mỗi làng trong 4 tỉnh vừa kể trên, mỗi ngày có đến năm chục người chết. Nguyên trong thành phố Hà Nội, cả ngày có từ 500 đến 700 người chết. Trung b́nh, ở Hà Nội, Nam Định, Vinh và Hà Tĩnh, mỗi ngày gần 5000 người chết đói. Có người ngả ra đám cỏ nhặt lấy nhai nuốt......Trong bụng người chết có khi có cả nút chai, da giày, rơm khô v́ họ ăn cả những đồ cho ngựa ăn....” (Trích báo “Sàig̣n, đặc biệt cứu tế” số ra ngày 20/5/45, đính kèm).
Tại Nam bộ, bác sĩ Nguyễn Văn Thinh, được bầu làm chủ tịch “Hội chẩn tế miền Nam”, hoạt động tích cực trong giới thương gia, điền chủ, các Hoa kiều buôn bán, cho nên chỉ trong một tháng, thâu được một số tiền rất lớn để mua gạo chở ra Bắc. Tổ chức Thanh Niên Tiền Phong, đă tham gia công tác khó khăn và nguy hiểm để chở gạo ra cứu đói miền Bắc. Hồi kư chính trị Nam Đ́nh viết: “Hễ mỗi sáng, nhiều đoàn máy bay từ hàng không mẫu hạm đậu ngoài khơi Thái B́nh Dương, bay vào VN, đón đoàn xe lửa và xạ kích quân lính Nhựt. Máy bay thật thấp: họ xỉa liên thinh bắn vào từ cửa xe lửa. Nhiều đoàn xe chở đầy gạo bằng xe lửa không thể thực hành được. C̣n nói đến xe hơi vận tải, th́ chủ xe đ̣i “giá cắt họng”. Họ viện lẽ “cồn” (alcohol) mắc, và một khi ra đi không chắc trở về nguyên vẹn chiếc xe. Biết đâu xe không bị bắn dọc đường, ở đèo Hải Vân chẳng hạn, xe lật xuống hố?
........Thế cho nên mặc dầu xe lửa bị bắn hàng ngày, Thanh Niên Tiền Phong vẫn sẵn sàng hy sinh, t́nh nguyện hộ tống những “toa chở gạo”. Xe lửa chạy ban đêm. Hễ sáng lại, họ t́m những nơi nào có cây cao bóng mát, kéo những toa gạo vào đó mà giấu máy bay. Chờ trời chiều, gần tới, lại kéo ra tiếp tục lên đường. Những anh em Thanh Niên Tiền Phong không nài cực nhọc, quyết lănh sứ mạng đưa gạo ra Bắc cứu đói. Ngoài xe lửa, c̣n có ghe bầu. Ban tổ chức nghĩ rằng chở gạo theo xe lửa, tự nhiên bị máy bay oanh tạc, v́ quân lính Nhựt thường núp theo những toa chở gạo. Máy bay Mỹ không cố tính bắn vào gạo làm chi. Họ bắn lính Nhựt mà thôi, mà lính Nhựt núp trong toa chở gạo! Bởi vậy ban tổ chức tính chở gạo bằng ghe, mặc dầu đi đường biển hiểm nghèo hơn. Họ chịu sóng gió mà tránh được nạn máy bay. Máy bay Mỹ không bắn ghe bầu chở gạo. Nhờ vậy Thanh Niên Tiền Phong hộ tống được nhiều ghe gạo ra tới Bắc”. (Hồi kư “Tài liệu lịch sử 1945 - 1954) của Nam Đ́nh, trang 65, 66).
Thiện chí của chính phủ Trần Trọng Kim thật nhiều, gạo ở miền Nam ê hề. Nhiều nhà máy điện ở Sàig̣n dùng lúa đốt chạy máy thay thế xăng dầu. Trong khi đó, quá nhiều công việc khó khăn, nguy hiểm như kể trên. Tham vọng của Pháp muốn chiếm lại Đông Dương, thái độ ích kỷ của người Nhựt trong thời kỳ đó, là những yếu tố bất lợi khách quan cho dân tộc VN, nhưng được Việt Minh tận t́nh khai thác như một cơ hội bằng vàng để phát triển lực lượng, chờ thời cơ cướp chính quyền.
Dân miền Bắc chết đói hàng triệu người, Việt Minh không cứu trợ, lại phá hoại công cuộc cứu tế của chính phủ. Thứ nhứt họ phao tin đồn nhảm rằng các vị cầm đầu những hội cứu tế như bác sĩ Nguyễn Văn Thinh là gian lận tiền bạc. Họ bịa đặt, dựng đứng các câu chuyện xấu xa, gán ghép cho những người làm việc v́ thiện chí, khiến các thân hào nhân sĩ miền Nam chán nản. Trong khi ấy, Việt Minh nỗ lực tuyên truyền, hư trương thanh thế (khoác lác về thế lực). Họ lôi kéo được quần chúng nông dân nghèo theo họ bằng miếng ăn. “Hăy phá kho thóc giải quyết nạn đói” là khẩu hiệu của Việt Minh hô hào dân chúng miền Bắc xuống đường. Hàng hàng lớp lớp, hàng ngàn, hàng chục ngàn với dao mác, gậy gộc làm vơ khí, kéo vào cướp phá các lẩm lúa của Pháp, của Nhựt, của nhà giàu ở miền Trung du Bắc Việt. Họ ḥ hét, hô những khẩu hiệu đả đảo.... tất cả trở thành một đội quân ăn cướp, không kỷ luật, sức mạnh nào đàn áp được. Việt Minh cố tạo ra một t́nh trạng hỗn loạn, vô chính phủ để dễ dàng cướp chính quyền. Việt Minh khai thác ḷng căm thù đối với Pháp Nhựt, đối với chính phủ và nhân viên chính phủ th́ họ gọi là “bù nh́n”, là “thân Nhựt”, là “tay sai của Nhựt”.......
Nhưng Việt Minh rất quỷ quyệt. Trong khi hô hào quần chúng xuống đường phá các kho thóc, cướp gạo, thực phẩm, th́ họ chia cho dân chúng một phần nhỏ, c̣n bao nhiêu đem giấu, chở lên chiến khu Tân Trào nuôi cán bộ đang thiếu ăn trên rừng. Tới nay ít người biết thủ đoạn của Việt Minh trong hành động nầy.
Chính phủ Trần Trọng Kim thống nhứt đất nước trước “cách mạng tháng Tám.” “Việc thu cả ba Kỳ về quyền trung ương để thống nhất đất nước như khi chưa bị bảo hộ của nước Pháp, là việc rất trọng yếu của chính phủ chúng tôi.” (Trần Trọng Kim “Một cơn gió bụi, trang 62- 63).
Sau khi tuyên bố độc lập ngày 11/3/45, hoàng đế Bảo Đại nêu vấn đề thống nhất lănh thổ với đại sứ Yokohama.... ông nầy trả lời rằng: “Xin hoàng thượng hăy nhẫn nại. T́nh h́nh quân sự hiện giờ làm cho nước Nhựt phải đặt Nam kỳ như một vùng chiến lược, và phải nắm quyền cai trị xứ đó. Nhưng khi Nhựt đă thắng trận, sẽ giao trả lại cho VN” (Nguyễn Long, Thành Nam “PGHH trong ḍng lịch sử dân tộc”, Đuốc Từ Bi xuất bản, năm 1991, trang 340).
Trước tiên Nhựt chịu trả Bắc bộ, nhưng vẫn giữ lại 3 thành phố nhượng địa của Pháp cũ: Hà Nội, Hải Pḥng, Đà Nẵng. Khi lấy lại Bắc bộ, triều đ́nh cử ông Phan Kế Toại làm khâm sai, và tại Trung bộ, ông Nguyễn Đ́nh Ngân, Tham Lư VaÏn Thọ viên, làm “Trung kỳ hành chánh thanh tra” (Dụ số 21 của hoàng đế Bảo Đại kư ngày 17/5/45.) (Xem báo “L'Action, bản sao đính kèm ).
Ngày 14/6/45, nhân lễ “Hưng Quốc Khánh Niệm”, triều đ́nh Huế tổ chức cuộc chạy tiếp sức của thanh niên từ Huế ra Hà Nội, đem “Việt Nam Thống Nhất đại khánh đạo dụ” ra Hà Nội. Đây là lần đầu tiên của Bắc và Trung bộ kể như thống nhứt, dân chúng tỏ vẻ phấn khởi vui mừng. Tờ báo “Dân Mới” số ra ngày thứ tư 20/6/45 đăng tin như sau: “Nhọ mặt người, ngày 14/6 năm “Độc lập” thứ nhất, một đoàn thanh niên chạy xe máy, chạy lối Hoa Kỳ, đem một đạo dụ về tới phủ Khâm Sai Thăng Long.
Trước khi Đạo dụ vào tới nội địa thành phố, đă có nhiều thuộc viên ở phủ Khâm Sai gọi điện thoại cho các đồng liêu ở các sở, đă có nhiều bạn trẻ loan truyền ra ngoài, đă có nhiều người biết. Biết rằng thế nào từ giờ tới chiều, “Đạo dụ Việt Nam thống nhất” cũng ra tới đây. Biết thế, bao nhiêu cờ đỏ của nước mới, đều chôn chân trước phủ Khâm Sai đông không kém một cuộc biểu t́nh......
....Ấy thế, Đạo dụ tới, quan Khâm Sai họ Phan, khấu đầu làm lễ tiếp dụ. Ấy thế rồi cái đoàn thanh niên chạy “dụ” kia, lui ra về, ḷng mừng nổi lên bài hát “Anh em ơi!.......”. Thế là từ phút ấy, cái tin “Việt Nam thống nhất”, đă trở nên một việc nằm nơi đầu lưỡi tất cả công dân nước mới. Một cái kinh thành nầy, đêm ấy tưởng có loạn. Loạn vui.
Cảm động biết là bao, khi ở nhiều gia đ́nh tằn tiện, bữa cơm tối ấy, người ông định mua có một chút rượu ăn mừng vận nước, th́ các người con lại đ̣i góp tiền vào cho thành hẳn một chai lớn. Tin tức đẹp như thế, phải uống chứ!
Cảm động biết là bao, khi nhiều gia đ́nh người Bắc, người Nam, người Trung lốc cốc tới báo tin cho nhau, thăm nhau, ôm nhau mừng và tủi rằng “bây giờ chúng ta mới lại trở nên một khối”......(Trích báo “Dân Mới” 20/6/45, xuất bản tại Hà Nội).
Như vậy, rơ ràng đến ngày 11/6/45, lễ “Hưng quốc khánh niệm” tại Huế trở thành lễ Việt Nam thống nhứt (Bắc và Trung).
Ngày 13/7/45, thủ tướng Trần Trọng Kim ra Hà Nội thương thảo lấy lại 3 thành phố nhượng địa. Toàn quyền Nhựt đồng ư trao Hà Nội, Hải Pḥng, Đà Nẵng cho triều đ́nh VN ngày 20/7/45. Bảy ngày sau, thủ tướng Kim bổ nhiệm:
Trần Văn Lai: Đốc lư Hà Nội (thị trưởng)
Vũ Trọng Khánh: Đốc lư Hải Pḥng.
Nguyễn Khoa Phong: Đốc lư Đà Nẵng. (Chính Đạo “VN Niên biểu, trang 222,tập IA).
Tại Hà Nội, tân thống sứ Nhựt Nishimura có triệu tập tất cả quan lại VN vào ngày 20/3/45, đề cao chính nghĩa quân đội Thiên Hoàng, giải phóng các dân tộc Đông Dương. Các quan lại VN tới dự phiên họp nầy gồm:
Thân Trọng Hậu: Tuần phủ Bắc Giang
Thân Trọng Yêm: Tuần phủ Bắc Ninh
Hồ Đắc Điềm: Tổng đốc Hà Đông
Dương Thiệu Tường: Tổng đốc Hải Dương
Trần Lưu Vy: Tuần phủ Hưng Yên
Từ Bộ Thức: Tuần phủ Nam Định
Đào Trọng Hương: Bố chính thay Tuần phủ Ninh B́nh
Đàm Duy Huyến: Tuần phủ Hà Nam
Nguyễn Bạch: Tuần phủ Phú Thọ
Nguyễn Huy Xướng: Tuần phủ Sơn Tây
Phan Kế Toại: Tổng đốc Thái B́nh
Nguyễn Trọng Tấn: Tuần phủ Vĩnh Yên
Trần Lưu Mậu: Tuần phủ Kiến An
Cung Đ́nh Vận: Tuần phủ Thái Nguyên
Bùi Văn Thiếp: Tuần phủ Phúc Yên
Đặng Vũ Niết: Bố chánh
Đỗ Quang Tiệp: Bố chánh.
Từ đó về sau, mọi việc nội trị đều thuộc quyền Khâm sai, (27/4/45).
-- Con Ho Dam Tac - Nong Duc Manh (Con_Ho_Dam_Tac@hn.vnn.vn), September 23, 2003