TÀI LIỆU LỊCH SỬ VỀ ẢI NAM QUANgreenspun.com : LUSENET : Vietnamese American Society : One Thread |
TÀI LIỆU LỊCH SỬ VỀẢI NAM QUAN
Xin chân thành cảm ơn anh Henry Vũ đă chuyển bài viết Ai Nam Quan Trong Ḷng Lịch Sử Dân Tộc Việt sang dạng UNICODE cho tôi.
Kính. HDH
LỜI NÓI ĐẦU
Vào ngày 27/12/1999, Bộ Trưởng Ngoại Giao của Cộng Ḥa Xă Hội Chủ Nghĩa Việt Nam (CHXHCNVN) khi ấy là Nguyễn Mạnh Cầm bí mật kư Hiệp Ước Biên Giới Hoa-Việt với Bộ Trưởng Ngoại Giao Đường Gia Truyền của Cộng Ḥa Nhân Dân Trung Quốc (CHNDTQ). Sau đó, vào ngày 9 tháng 6 năm 2000, Hiệp Ước này được thông qua bởi Quốc Hội CHXHCNVN, có hiệu lực từ ngày 6/7/2002. Tin hành lang cho biết rằng các thành viên trong Quốc Hội CHXHCNVN không có văn bản Hiệp Ước này trong tay để đọc. Bộ Chính Trị ĐCSVN tŕnh bày bằng miệng với Ban Thường Vụ của Quốc Hội CHXHCNVN, sau đó, Ban Thường Vụ đồng ư và làm áp lực để tất cả Quốc Hội của CHXHCNVN phải thông qua Hiệp Ước này.
Trong Hiệp Ước này, CHXHCNVN nhường khoảng 789 km2 phần đất biên giới cho CHNDTQ bao gồm nhiều danh lam thắng cảnh, địa điểm lịch sử, và những trọng thế chiến lược quân sự. Nhiều người không biết chuyện này măi cho đến ngày 27/12/2001, hai nhà nước CHXHCNVN và CHNDTQ chính thức làm lễ Cắm Cột Mốc Biên Giới. Cột mốc đầu tiên được cắm là ở Móng Cái, tỉnh Lạng Sơn, Việt Nam.
Ngoài Hiệp Ước này ra, vào ngày 25 tháng 12 năm 2000, NNCHXHCNVN c̣n bè phái cấu kết với nhau trong bí mật kư Hiệp Ước Phân Chia Lănh Hải với CHNDTQ mà trong đó CHXHCNVN nhượng khoảng chừng 10 ngàn km2 cho CHNDTQ.
Cả hai Hiệp Ước đă tạo một cơn sóng bất măn ở Việt Nam và ở hải ngoại. Có rất là nhiều vấn đề liên quan đến hai Hiệp Ước này. Tôi đă có cơ may tŕnh bày việc CHXHCNVN cắt đất dâng biển cho CHNDTQ trong Hội Luận Việt Nam ở Đại học Texas Tech, Lubbock, Texas, vào ngày 11 tháng 4 năm 2002. Tuy nhiên, tôi đang soạn lại bai viết để đi vào chi tiết những "tiểu vấn đề" giúp cho hiểu thấu hơn chuyện đang xảy ra. Ải Nam Quan là một trong những tiểu vấn đề quan trọng và phức tạp nhất trong chuyện này, do đó, tôi muốn ưu tiên dành thời giờ đào sâu chi tiết về vấn đề Ải Nam Quan. Tôi sẽ dịch bài viết này sang tiếng Việt để gởi đến các độc giả Việt Nam. Chân thành cám ơn sự quan tâm của quư vị trong vấn đề Quan Hệ Hoa Việt mà vấn đề này có một hệ quả sâu rộng đối với quyền lợi của Hoa Kỳ và các quốc gia Tây Phương tại Đông Nam Á./.
Ls. Hoàng Duy Hùng,
Soạn thảo và sửa chữa lại tiểu mục Ải Nam Quan vào ngày 25/5/2002 tại Houston Texas.
Xưa kia, biên giới Việt Nam thời Văn Lang lên tới măi Hồ Động Đ́nh, Núi Ngũ Lĩnh. Thời Triệu Đà, Nam Việt gồm một phần tỉnh Vân Nam, hai tỉnh Quảng Tây, Quảng Đông và Đảo Hải Nam. Năm 43, Mă Viện ra lệnh dựng trụ đồng như một h́nh thức xác nhận biên giới hai nước, cột đồng này ở vùng Cổ Lâu, Núi Phân Mao, cách Khâm Châu khoảng 3 cây số. Thời anh hùng Ngô Quyền giành Độc Lập cho nước Việt năm 939, biên giới Việt gồm một phần tỉnh Vân Nam và cả tỉnh Quảng Tây. Trung Hoa nh́n thấy mỗi lần chiếm được đất Việt, người Việt vùng dậy th́ họ có khả năng chiếm lại đất tổ, lên tới tận Quảng Tây và nhiều khi tới cả Quảng Đông luôn, hay ít nhất lên tới chỗ trụ đồng mà Mă Viện ra lệnh xây cất năm 43. Từ thế kỷ thứ 10 đến 16, người ta gọi vùng biên giới này là Ải Pha Lũy hay Ải Ba Lụy. V́ thấy không có một bức tường thành kiên cố ngăn chận "sự chiếm đất này lại" của người Việt, nhân lúc Mặc Đăng Dung cắt đất dâng cho nhà Minh, thế kỷ thứ 16, vua Gia Tĩnh liền xây một cái cổng và một tường thành kiên cố giống y các vua chúa bên Trung Hoa ngày xưa xây Vạn Lư Trường Thành chận đứng sự xâm lăng của quân Hung Nô và các bộ tộc phía bắc. Từ đó, danh xưng Ải Nam Quan chính thức được ra đời với nhiều màn ly kỳ. Vua Quang Trung nhận ra âm mưu này của người Trung Hoa, năm 1792, sai Sứ Thần sang Bắc Kinh đ̣i lại hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây, t́m cách phá hủy sự cản bước của cái Cổng này. Nhưng, tiếc thay, ngài đột ngột qua đời với nhiều nghi vấn là ngài đă bị vua Càn Long của Nhà Thanh đầu độc qua áo bào quư giá mà vua Càn Long giả vờ tặng cho ngài. Bây giờ, vùng đất này ĐCSVN đă dâng hiến hoàn toàn cho Cộng Ḥa Nhân Dân Trung Quốc th́ c̣n đâu là những giá trị oai hùng của lịch sử nước Việt?
ẢI NAM QUAN TRONG L̉NG LỊCH SỬ DÂN TỘC VIỆT NAM
Khi Tổng Thống Charles De Gaulle (1890-1070) , một anh hùng cứu nước Pháp khỏi bàn tay Nazi của người Đức trong Đệ Nhị Thế Chiến và là người sáng lập nên Đệ Ngũ Cộng Ḥa Pháp, qua đời vào tháng 11 năm 1970 v́ cơn nhồi tim, ông Georges Jean-Raymond Pompidou (1911-1974) lúc đó đang làm Tổng Thống của nước Pháp, đă phát biểu: "Cái chết của Tổng Thống De Gaulle làm cho nước Pháp trở nên bị góa bụa." Đối với tôi, trên quan điểm lịch sử, văn hóa, và quân sự, Việt Nam trở thành một đàn bà góa bụa khi cả vùng Ải Nam Quan bị mất vào tay Trung Quốc.
Việt Nam có câu ngạn ngữ mà ai cũng học thuộc ḷng từ hồi c̣n lớp mẫu giáo: "Nước Việt Nam chạy dài từ Ải Nam Quan đến Mũi Cà Mau." Nếu chúng ta nh́n trên bản đồ, chúng ta có thể dễ dàng nh́n ra đỉnh cao nhất của phía bắc Việt Nam giáp ranh giới của Trung Hoa là thị trấn Đồng Văn, tỉnh Hạ Giang. Dẫu vậy, v́ vai tṛ của Ải Nam Quan trong lịch sử, v́ vị thế tự nhiên, kiên cường, và chiến lược của nó để bảo vệ lấy sự xâm lăng của quân Trung Hoa thẳng đến thủ đô Hà Nội, Ải Nam Quan trở thành một phần trong văn chương và đời sống hàng ngày của người Việt, và, khi người Việt Nam nghĩ đến Ải Nam Quan, lập tức người Việt Nam tự nhiên nghĩ đến nó là "biên giới" giữa Trung Hoa và Việt Nam hơn là nghĩ tới Đồng Đăng.
Khi người Việt Nam nhắc đến "Ải Nam Quan" th́ họ ám chỉ cả một vùng mà trước đây ở những thế kỷ xa xưa thường được gọi là Ải Nam Giao và sau này vào thời Trung Cổ từ khoảng thế kỷ thứ 10 đến thế kỷ thứ 16 gọi là Ải Pha Lũy hay là Ải Ba Lụy. Khu vực Ải Nam này khá rộng lớn gồm nhiều đồi núi hùng vĩ, một con suối dài khoảng 40 cây số và những thung lũng dọc theo con suối này. Ải Nam này là một khoảng cách khá dài chạy dọc theo con suối ở giữa những ngọn núi uy mănh đó. Hai bên phía trái và phía phải của Ải Nam này đều có những "ải" nhỏ, nhưng những ải này không có tầm quan trọng chiến lược. Vào thế kỷ thứ 16, Nhà Minh xây một cái cổng ở ngay Ải Nam, và từ ngày đó, khi người Việt Nam nhấn mạnh đến chủ quyền của họ trên "Ải Nam Quan" th́ ư của họ là nói đến chủ quyền phần đất từ phía nam của Cái Cổng này. Nếu cả vùng phía nam của Ải Nam Quan mà mất vào tay người Trung Hoa, nó là một sự thiệt tḥi lớn lao cho người Việt Nam trên nhiều phương diện, đặc biệt, nó lá một "cú đấm gục ngă" đối với niềm tự hào và tự quyết của dân tộc Việt Nam.
Những thế kỷ đầu, khi người Việt Nam xác quyết chủ quyền của họ trên Ải Nam, có lẽ họ nói đến tất cả khu vực nơi con suối bắt đầu và nơi con suối kết thúc làm nên cái "Ải Nam" này, và, biên giới của khu vực này có lẽ là ở ngay tại cột đồng lịch sử mà Mă Viện ra lệnh dựng nên vào khoảng năm 43 sau Công Nguyên.
Vào năm 40 sau Công Nguyên, dưới sự lănh đạo của hai chị em cao quư mà Việt Nam gọi Nhị Trưng Vương, người Việt nổi dậy chống lại sự cai trị của người Trung Hoa và giành được độc lập lại cho nước nhà trong một thời gian ngắn, khoảng 3 năm. Đại Đế Quang Vũ (cai trị 25-58 AD) của nhà Đông Hán (25-220 A.D) bên Trung Quốc liền cử Mă Viện (14 B.C - 49 A.D), một trong những tướng tài giỏi nhất của ông, với một số quân hùng hậu đông hơn Hai Bà nhiều, đến Giao Chỉ (tên của Việt Nam thời bấy giờ) để đàn áp cuộc nổi dậy. Năm 43, sau khi bị thất trận ở Hát Môn, hiện nay ở tỉnh Sơn Tây của Việt Nam, Hai Bà chọn một cái chết đáng kính ngưỡng bằng cách trầm ḿnh ở ngay giao điểm của hai con sông, sông Hát Giang. Sau cái chết của Hai Bà Trưng, Mă Viện để lại một số binh sĩ và giao cho một trong những thuộc hạ của ông cai trị Giao Chỉ, phần đất mà họ mới tấn chiếm, và Mă Viện rút quân trở về với Triều Đ́nh Nhà Hán. Trên đường về, khi qua biên giới Hoa-Việt, Mă Viện ra lệnh dựng một cột đồng để chứng tỏ quyền uy của Trung Quốc trên đất Việt, và trên cột đồng có khắc gịng chữ: "Đồng Trụ Chiết (ngă), Giao Chỉ Diệt." Sợ rằng một ngày nào đó cột đồng này sẽ bị ngă tạo một hiện tượng tâm lư xấu trong các thế hệ Việt tương lai, tổ tiên người Việt lúc đó mỗi người đă cầm một cục đá ném vào trụ đồng, các cục đá cứ vậy mà đắp lên chung quanh cột đồng thành một ngọn đồi nhỏ, và trụ đồng vĩnh viễn bị chôn trong cái "ngọn đồi" này. (Xin xem h́nh Hai Bà Trưng Chọn Cái Chết Anh Dũng Trầm Ḿnh ở Sông Hát Giang vào năm 43 ở trang 6 phần tiếng Anh ),
Dầu một sự kiện lịch sử quan trọng xảy ra như vậy, cũng không có ai chính thức ghi nhận chính xác nơi cột đồng đă được dựng nên. Từ năm 43 trở đi, nhiều biến cố lịch sử diễn ra, nhiều sự thay đổi nhanh chóng, bụi bậm bám vào che lấp ngọn đồi đá đă chôn sâu cột đồng đó, và cây cỏ mọc lên trên ngọn đồi này làm cho cột đồng này trở thành một di tích lịch sử bị mất. Năm 819, Mă Tổng, con cháu của Mă Viện, một quan chức của Nhà Đường, được gởi đến làm thái thú Giao Chỉ, đă gian lận cho dựng nên hai cột đồng khác ở miền trung Việt Nam, một ở tỉnh Nghệ An bây giờ và một ở phần đất nay là tỉnh Quảng B́nh. Mă Tổng nói rằng đó chính là hai cột đồng do tổ tiên Mă Viện của ông dựng nên từ hồi trước. Tuy nhiên, chính hai cột đồng này v́ lư do nào đó cũng đă bị hủy diệt, và ngày hôm nay không c̣n một dấu vết nào của hai trụ đồng này nữa. Dựa lên trên sự xảo trá này của Mă Tổng và những sự nhận định sai lầm khác, cho tới ngày hôm nay, nhiều sử gia Trung Quốc cho rằng Việt Nam là một tỉnh phản loạn của Trung Hoa, v́, đối với họ, nơi đó chính là "biên giới" của Trung Hoa. Song le, các sử sách Việt Nam như Đại Việt Sử Kư Toàn Thư (1479) cho rằng cột đồng Mă Viện được dựng nên ở tại "động" Cổ Lâu, núi Phân Mao. Theo sử sách chính thống của Nhà Thanh (1644-1911), Đại Thanh Nhất Thống Chí, núi Phân Mao ở tại động Cổ Sâm, một sắc dân thiểu số, và động này cách xa thành phố Khâm Châu, tỉnh Quảng Tây, khoảng 3 cây số. Sự xác quyết của sử sách Việt Nam có lư hơn, v́ trong bản đồ của Trung Hoa thế kỷ thứ 4, lănh thổ Nam Việt gồm một phần tỉnh Vân Nam, tỉnh Quảng Tây, tỉnh Quảng Đông, và Đảo Hải Nam. Các bản đồ thế kỷ thứ 10, khi Việt Nam do anh hùng Ngô Quyền giành lại Độc Lập năm 939, rơ ràng lănh thổ Nam Việt gồm một phần tỉnh Vân Nam và tỉnh Quảng Tây. (Xin xem các bản đồ ở trang 8 và trang 9 trong phần bài viết bằng tiếng Anh)
Từ ngày Việt Nam giành lại Độc Lập vào năm 939, nhiều cuộc chiến đă diễn ra giữa Việt Nam và Trung Hoa, và nhiều cuộc đụng độ đẫm máu đă diễn ra ở vùng Ải Nam. Để thắng Việt Nam, Trung Hoa phải thắng trận chiến ở vùng Ải Nam, và khi Trung Hoa thất trận và rút lui khỏi Việt Nam, một trong những trận địa quân sự cuối cùng vẫn là ở vùng Ải Nam này. Từ thế kỷ thứ 10 đến thế kỷ 16, biên giới Việt-Hoa phải là ở ngay cột đồng mà Mă Viện ra lệnh dựng nên vào năm 43, nhưng, vào lúc bấy giờ, không ai t́m ra đích xác chỗ chôn cột đồng này; do đó, vấn đề biên giới đă không được giải quyết. Hơn nữa, vào những thế kỷ đó, các bộ tộc miền núi thường hay "nhảy qua nhảy lại," lúc th́ xin quy phục triều đ́nh Đại Việt, lúc th́ xin quy phục triều đ́nh Trung Hoa. Một dữ kiện khác đó là vào thời điểm đó, dân số quá ít, đất đai quá rộng, nên đối với các chính phủ, việc điều khiển và cai trị người mới là vấn đề tối quan trọng, chớ không phải việc làm chủ quyền đất đai. V́ vậy, quả thật rất là khó khăn để quyết định chính xác vị trị biên giới Việt-Hoa trong những thế kỷ đó.
-- (Việt_Nhân@Filsons.com), October 30, 2004
Phần Hai :]]]]]]]]]]]]]]]]]]]]]]]]]]]]]]]]]]]]]]] [[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[ [[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[ [[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[
Vào năm 1400, Hồ Quư Ly cướp ngôi triều đ́nh Nhà Trần. Nhà Minh bên Trung Quốc lập tức công bố họ sẽ trừng phạt gịng tộc Hồ để giúp cho con cháu nhà Trần lên ngôi trở lại. Nhà Minh chuẩn bị đem quân vào Đại Việt. Hồ Quư Ly quá sợ hăi trước quân đội hùng mạnh của Nhà Minh, theo Đại Việt Sử Kư Toàn Thư (1479), vào năm 1405, Hồ Quư Ly nhường cho Nhà Minh phần đất Cổ Lâu ở núi Phân Mao và 59 động ở biên giới Việt-Hoa như một h́nh thức hối lộ để cho Nhà Minh không tấn công hủy diệt gịng tộc Hồ. Nhà Minh chấp nhận sự nhượng đất này, đem phần đất Cổ Lâu và 59 động nhập vào Vương Quốc của Nhà Minh dưới sự cai quản của Khâm Châu , tỉnh Quảng Tây. Dẫu vậy, vào năm 1407, nhà Minh vẫn đem quân đánh chiếm và cai trị Đại Việt (tức là Việt Nam thời bấy giờ) 20 năm trời.
Khi Nhà Minh đem quân đánh chiếm Đại Việt vào năm 1408, họ bắt và chuyển một số vua quan gịng họ Hồ của Đại Việt về Kim Lăng, ở tỉnh Sơn Đông bên Trung Quốc để dễ bề kiểm soát. Nguyễn Phi Khanh, một trong những đại thần của vua Hồ cũng bị bắt đi theo nhóm này để bị chuyển về Kim Lăng. Nguyễn Trải (1380-1442), con của Nguyễn Phi Khanh, theo cha đến tận Ải, và lúc bấy giờ người ta gọi là Ải Pha Lũy. Nguyễn Trải rất buồn cho số phận của cha đến nỗi ông không c̣n muốn sống nữa. Đến một nơi, hai cha con Nguyễn Phi Khanh và Nguyễn Trải ôm nhau khóc, khóc rất nhiều, và Nguyễn Phi Khanh khuyên Nguyễn Trải hăy vững mạnh lên, hăy trở về và t́m đường cứu đất nước ra khỏi bàn tay đô hộ của người Trung Hoa. Truyền thuyết thêu dệt rằng những giọt nước mắt của họ đă chảy xuống thành gịng suối ở ngay Ải, và, sau này, để tôn vinh ḷng ái quốc của hai cha con, người ta đă đặt tên cho con suối này là Suối Phi Khanh.
Nguyễn Trải buồn rầu chia tay cha trở về Đại Việt, và, sau này, ông gia nhập giúp cho Lê Lợi, một phú nông rộng lượng có một quả tim vĩ đại cho dân tộc vào năm 1418 đă trở thành vị anh hùng cách mạng phất cờ lănh đạo một cao trào chống lại sự cai trị của Nhà Minh. Nguyễn Trải, một triết gia, đă trở thành bộ óc, lư thuyết gia, và chiến lược gia cho Lê Lợi. Chính ông đă viết B́nh Ngô Đại Cáo với những lời hùng mạnh, cao siêu, và đầy triết lư như sau: "Lấy chí nhân mà thay cường bạo; đem đại nghĩa để thắng hung tàn." Sau 10 năm chiến đấu, Lê Lợi và Nguyễn Trải đă giành lại được Độc Lập cho Đại Việt. Lê Lợi và Nguyễn Trải cũng chiếm lấy lại được tất cả các lănh thổ mà Hồ Quư Ly đă nhượng cho nhà Minh trước đây, và đương nhiên, Suối Phi Khanh, nơi mà Nguyễn Trải đă chia tay với cha, đă trở thành một địa danh linh thiêng từ ngày đó. Năm 1428, Lê Lợi lên ngôi trở thành Lê Thái Tổ, sáng lập ra Triều Đại Nhà Lê. Biên giới Hoa-Việt vào Triều Đại Nhà Lê vẫn thường là ở ngay cột đồng được dựng lên do lệnh của Mă Viện vào năm 43, bị chôn sâu trong đống đá đă trở thành một "ngọn đồi" ở đâu đó tại vùng Cổ Lâu, núi Phân Mao, gần Khâm Châu, tỉnh Quảng Tây.
Thế rồi, vào năm 1527, Mạc Đăng Dung cướp ngôi Nhà Lê. Tám (8) năm sau, năm 1535, gia đ́nh uy dũng họ Nguyễn đă giúp lại cho Vua Lê lấy lại được quyền, đuổi gịng họ Mạc ra khỏi Hà Nội. Sau một thời gian ngắn, gia đ́nh họ Trịnh, sui gia với nhà Nguyễn, đă cướp được quyền Chúa của gịng tộc Nguyễn, đuổi gịng tộc Nguyễn ra khỏi kinh thành. Gịng tộc Nguyễn trôi giạt xuống phía nam lập ra một vương quốc mới, và gịng tộc Trịnh cai trị Hà Nội và vùng phụ cận qua các vua Lê như là những kẻ bù nh́n của họ. Trong khi ấy, gịng tộc Mạc đi về phía bắc thành lập một vương quốc riêng ở vùng đất ngày hôm nay là tỉnh Cao Bằng - Lạng Sơn của Việt Nam và một phần đất ngày hôm nay thuộc về tỉnh Quảng Tây của Trung Quốc.
Năm 1537, dưới chiêu bài ủng hộ con cháu Nhà Lê trở về ngai vàng, Nhà Minh sai hai tướng Cừu Loan và Mao Bá Ôn chuẩn bị đem trên 100 ngàn quân tiến chiếm Đại Việt. Trước khi đến biên giới, các tướng Nhà Minh hù dọa rằng sẽ mang cả gịng tộc Mạc ra hành quyết. Để đổi lấy sự rút quân của Trung Hoa cũng như để đạt lấy sự bảo hộ của Nhà Minh, theo sử sách Việt Nam, gịng tộc Mạc đă 2 lần dâng đất cho Trung Hoa. Lần thứ nhất xảy ra vào năm 1538, Mạc Đăng Dung dâng hai châu Quy và châu Thuận, và lần thứ hai xảy ra vào năm 1540, Mạc Đăng Dung nhường 6 động Tê Phù, Kim Lặc, Cổ Sâm, Liễu Cát, An Lương, và La Phù của châu Vĩnh An, Yên Quảng cho Nhà Minh và Nhà Minh sát nhập các phần đất này trở thành một phần của Khâm Châu, tỉnh Quảng Tây.
Sách sử của Trung Hoa có đôi chút khác biệt. Theo họ, lúc đầu hai tướng Cừu Loan và Mao Bá Ôn báo cáo về cho Triều Đ́nh Nhà Minh biết Mạc Đăng Dung đă "trả lại" 4 động Cổ Sum, Tê Lẫm, Kim Lặc, và Liễu Cát mà Đại Việt trước đây đă "xâm chiếm" của Trung Hoa. Trong cuốn Khâm Châu Chí của nhà Thanh lại chép Mạc Đăng Dung nộp trả năm (5) động Ty Phù, La Phù, Cổ Sâm, Liễu Cát, và Kim Lặc mà thôi, chớ không thấy nói đến động An-Lương. Có lẽ dựa trên cuốn Khâm Châu Chí của nhà Thanh, nên sử gia Trần Trọng Kim của Việt Nam vào đầu thập niên 1970s cho rằng Mặc Đăng Dung chỉ có dâng 5 động Tê Phú, Kim Lặc, Cổ Xung, Liễu Cát, và La Phù. Sử gia Trần Trọng Kim bỏ động An Lương. Ngạc nhiên hơn nữa, sử gia Trần Trọng Kim c̣n cho biết Mặc Đăng Dung cắt dâng đất "Khâm Châu" cho nhà Minh. Chúng ta không biết chắc "Khâm Châu" mà sử gia Trần Trọng Kim nhắc đến có phải cũng là "Khâm Châu" ở tỉnh Quảng Tây hôm nay hay không. Tuy nhiên, nhiều người suy diễn khi sử gia Trần Trọng Kim nhắc đến "Khâm Châu," sử gia Trần Trọng Kim ám chỉ vùng Cổ Lâu, núi Phân Mao, nơi cột đồng Mă Viện đă ra lệnh dựng nên năm 43, cách xa thành phố Khâm Châu khoảng 3 cây số.
Riêng Bác Sĩ Trần Đại Sỹ, trong bài điều trần "Về Việc Đảng Cộng Sản Việt Nam Lănh Đạo Nhà Nước Cắt Lănh Thổ, Lănh Hải Cho Trung Quốc," vào tháng 11 năm 2001, ở phần "Lời Cẩn Án," có ghi chú như sau: "Sử cũ chép đầu hàng nhà Minh, Mặc Đăng Dung xin nộp các động Ty Phù, Kim Lặc, Cổ Sâm, Liễu Cát, La Phù và An Lương thuộc châu Vĩnh An ở Yên Quảng cho lệ thuộc vào Khâm Châu. Nay xét Khâm Châu Chí của nhà Thanh, chỉ thấy chép đời Gia Tĩnh (1522-1566), Đăng Dung nộp trả năm động Ty Phù, La Phù, Cổ Sâm, Liễu Cát, và Kim Lặc mà thôi, chớ không thấy nói đến động An-Lương. Lại tra cứu đến Quảng Yên sách th́ thấy động An Lương hiện nay là phố An Lương thuộc châu Vạn Ninh nước ta. Có lẽ về động An Lương, Đăng Dung chưa từng dâng nộp, mà chỉ là do sử cũ chép sai sự thật đó chăng? Lại xét, trong năm Mạc Minh Đức thứ 2, tức là năm Minh Gia Tĩnh thứ 7 (1528), sử cũ chép Đăng Dung sợ nhà Minh hỏi tội, bèn tính chuyện cắt đất đem dâng hai châu Quy, Thuận, vua Minh Nhận. Từ đó, Nam, Bắc lại cho sứ giả đi lại thông hiếu. Nhưng nay tra cứu bản đồ trong nước ta th́ có Quy-Hóa Châu và Thuận Châu. Hai châu này hiện nay thuộc tỉnh Hưng Hóa. Trong Đại thanh Nhất Chí tuy có chép châu Quy-Thuận nguyên thuộc phủ Trấn an tỉnh Quảng Tây nhà Thanh đấy thật, nhưng hai châu mà sử cũ gọi là Quy, Thuận có lẽ là Quy-Hóa và Thuận Châu đó thôi."
Dựa trên một số điểm khác biệt như vậy, nhà sử học Marxist Trần Khuê vào năm 1995 đă viết một bài phê b́nh gắt gao sử gia Trần Trọng Kim là đă chép sử sai, thay v́ phải chép Mặc Đăng Dung cắt dâng cho Nhà Minh 6 động th́ đă "tự ư bỏ mất đi động An Lương," và, "(sử gia Trần Trọng Kim đă) bịa thêm cái gọi là 'Khâm Châu'. Làm sao Mặc Đăng Dung lại có thể cắt đất dâng nộp phần đất không phải là của nước ḿnh?" Nhà Marxist Trần Khuê viết bài này bênh vực việc Mạc Đăng Dung cắt đất dâng cho Nhà Minh để được sự bảo vệ sống c̣n cho cả gịng họ Mạc không đến nỗi phải bị nguyền rủa giống y như những ǵ mà sử sách Việt Nam đă từng làm trong nhiều thế kỷ qua.
Rơ ràng là có đôi sự khác biệt ngay cả sử sách Trung Hoa và sử sách Việt Nam, tuy nhiên, một điều chắc chắn đó là Mặc Đăng Dung đă nhường một phần lănh thổ của Đại Việt cho Nhà Minh để đổi lấy sự bảo hộ của họ cho sự sống tồn của gịng họ Mạc, và, đối với đại đa số người Việt Nam, đây là hành động phản quốc đáng bị nguyền rủa qua muôn thế hệ ở mọi thời đại.
Sáu (6) hay năm (5) động và hai châu Quy, Thuận mà Mạc Đăng Dung dâng cho nhà Minh đều chỉ là một sự ám chỉ phần đất Cổ Lâu, núi Phân Mao, gần Khâm Châu, tỉnh Quảng Tây mà đối với người Việt Nam rất là linh thiêng v́ họ tin rằng nơi đây có cột đồng đă dựng nên vào năm 43 do lệnh của Mă Viện, và cột đồng này đă chôn sâu trong đống đá nằm ở đâu đó trong vùng này. Lợi dụng cơ hội nhượng đất này, Hoàng Đế Gia Tĩnh Nhà Minh (cai trị 1522-1566) ra lệnh xây một cái cổng ở ngay Ải tạo một dấu chứng biên giới Hoa-Việt để từ đó người Việt Nam khó ḷng mà có thể lấy lại đất tổ của họ ngay tới tận cột đồng đă được dựng nên từ năm 43 như một h́nh thức gây nên một tâm lư hội chứng xă hội, một dấu hiệu xấu cho người Việt Nam qua nhiều năm tháng. V́ cái Cổng huy hoàng và đồ sộ này, nên tự nhiên người ta quên đi các tên Ải Pha Lũy hay Ải Ba Lụy, và thay vào đó, người ta gọi nó những cái tên khác như Đại Nam Quan hoặc Trấn Di Quan. Nhà Minh chính thức gọi nó là Ải Nam Quan. Người Pháp, vào thế kỷ thứ 19, đă gọi nó là Cổng Trung Hoa (Porte de Chine). Vào thập niên 1960s, Mao Trạch Đông đề nghị với Hồ Chí Minh đổi tên nó thành Mục Nam Quan như một dấu chứng "đàn anh Trung Hoa" lúc nào cũng ngó xuống phía nam để lo lắng cho "đàn em Việt Nam" ngơ hầu làm cho t́nh hữu nghị quốc tế vô sản giữa hai quốc gia càng được trong sáng hơn. Hồ Chí Minh đề nghị lại xin đổi thành Hữu Nghị Quan.
Các hoàng đế Nhà Minh ra một chiếu chỉ rất nghiêm khắc về việc điều hành Cổng này. Về sau, các hoàng đế nhà Thanh cũng theo quy chế khắc khe đó. Theo như chỉ dụ, Cổng-Thành chỉ được mở khi có phái đoàn ngoại giao của hai nước, và nó chỉ được mở khi có lệnh của hoàng đế hay do quyết định "khôn ngoan" của vị Quan Tổng Đốc Lưỡng Quảng trong những trường hợp thật khẩn cấp. Bằng cách áp dụng nguyên tắc hành chánh khó khăn này trong vấn để mở Cổng Thành, Trung Quốc muốn chắc ăn Việt Nam sẽ rất khó mà có cơ hội dùng vũ lực tiến chiếm lại những vùng đất mà họ đă mất như họ đă từng làm nhiều thế kỷ trước. Từ ngày Cổng Thành được xây vào thế kỷ thứ 16, trên 200 năm, chưa có trường hợp nào Cổng Thành được mở ra v́ mục đích quân sự. Nhưng, vào năm 1788, Trung Quốc hồ hỡi mở Cổng Thành đưa các đạo quân vào nam, tổng cộng các đường tiến quân lên tới hơn 200 ngàn, để tấn chiếm Việt Nam.
Năm 1771, ba anh em họ Nguyễn ở Tây Sơn miền trung Việt Nam nổi lên chống lại Chúa Nguyễn ở phía nam và sau này chống lại Chúa Trịnh ở phía bắc. Ba anh em này được sử sách Việt Nam gọi là Nhà Tây Sơn. Năm 1777, anh em Tây Sơn lật đổ chính quyền ở trong nam. Năm 1786, and em Tây Sơn, dưới quyền điều khiển của người em trai trẻ nhất là Nguyễn Huệ, tiến thẳng và đóng chiếm Hà Nội. Sau khoảng 250 năm chia cắt, Việt Nam được thống nhất. Vua bù nh́n của Việt Nam lúc bấy giờ là Lê Chiêu Thống chạy sang Bắc Kinh vận động sự ủng hộ của Đại Đế Càn Long (cai trị 1735-1796) giúp ông ta trở về lên ngai vàng. Vua Càn Long nhận ra đây là cơ hội để Trung Hoa có thể tái cai trị Việt Nam, v́ thế, núp dưới danh nghĩa "ủng hộ con cháu nhà Lê trở lại ngai vàng và trừng trị những bày tôi phản trắc của nhà Lê," Đại Đế Càn Long sai tướng Tôn Sĩ Nghị chỉ huy 200 ngàn quân xâm chiếm Việt Nam. Từ ngày mà Cổng Thành được xây cất, đây là lần đầu tiền Ải Nam Quan được mở ra cho việc tiến công quân sự, và quá rơ ràng, phần lợi thuộc về phía Trung Hoa. Quân đội của Trung Hoa tiến vào Hà Nội một cách dễ dàng chỉ trong ṿng có vài tuần.
Đứng trước hiểm họa nguy cập Việt Nam có thể bị Trung Hoa đô hộ lần nữa, vào năm 1788, tại Huế thuộc miền Trung Việt Nam, Nguyễn Huệ đăng ngôi Hoàng Đế, lấy hiệu là Quang Trung (1752-1792). Hoàng Đế Quang Trung là một nhà thiên tài về quân sự, với những đạo quân khoảng 100 ngàn người, ông tiến từ Huế đến Hà Nội chỉ trong ṿng có vài tuần, thắng nhiều trận đánh oanh liệt, đánh bại quân đội hơn 200 ngàn người của tướng Tôn Sĩ Nghị một cách dễ dàng, đuổi họ ra khỏi Hà Nội. Tướng Tôn Sĩ Nghị phải rút về Trung Hoa và cái Cổng đă được đóng lại để ngăn chận sự tiến quân của Đại Đế Quang Trung.
Nhận thấy Cái Cổng chính là một cản trở vật để cho Việt Nam tiến chiếm lại các phần đất của tổ tiên, vào đầu năm 1792, tin rằng các đạo quân của ông đă được huấn luyện kỹ lưỡng và đủ hùng mạnh để tiến vào Trung Hoa gây chiến tranh với Nhà Thanh, Đại Đế Quang Trung cử ông Vơ Văn Dũng làm Sứ Thần trưởng phái đoàn đến Bắc Kinh để đưa ra hai điều kiện: 1/ Trung Hoa phải trao trả lại cho Việt Nam những phần đất của tổ tiên bao gồm 2 tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây, hoặc, ít nhất là phải trả lại tới phần đất ngay cây cột đồng đă được dựng nên vào năm 43; 2/ Hoàng Đế Nhà Thanh phải đồng ư gả công chúa cho Vua Quang Trung như một sự bày tỏ giao hảo lâu dài giữa hai quư tộc.
Không may, Vua Quang Trung một cách kỳ bí bị tai biến mạch máu năo (xưa gọi là chứng huyễn vận tức xuất huyết năo) rồi qua đời khi mà ông mới được 40 tuổi. Nhiều tin đồn cho biết sau khi Đại Đế Quang Trung đánh thắng quân đội của Tôn Sĩ Nghị vào năm 1788, Hoàng Đế Càn Long nhận ra ngay Vua Quang Trung là một thiên tài về quân sự, và, không bao lâu sau, Vua Quang Trung sẽ là mối họa lớn cho Triều Đ́nh Nhà Thanh. Do đó, Hoàng Đế Càn Long giả vờ ông ấy rất ái mộ Vua Quang Trung đến độ ông ấy vào năm sau, năm 1789, chính thức gởi sắc phong công nhận Vua Quang Trung là "An Nam Quốc Vương." Và, để đánh dấu biến cố đặc biệt này, Hoàng Đế Càn Long trao gởi một áo bào lộng lẫy và mắc tiền như một "tặng vật" cho Vua Quang Trung. Vua Quang Trung không biết áo bào đă có nhuộm một loại thuốc độc đặc biệt thấm sâu trong các sợi chỉ của áo bào; v́ thế, khi ông mặc vào, kết quả là chất độc từ từ thấm vào các tế bào của ông, và vài năm sau, chất độc phản ứng gây nên một tai biến bất ngờ cướp lấy đi mạng sống của ông.
-- (Việt_Nhân@Filsons.com), October 30, 2004.
Đoạn Kết C'est Finito[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[]]]]]]]]]]]]]]]]]]]]]]]]]] ]]]]]]]]]]]]]]]]]]]]]]]]]]]]]]]]]]]]]]]] [[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[
Hung tin cái chết của Vua Quang Trung đến tai Sứ Thần Vơ Văn Dũng ở Bắc Kinh. Ông sứ thần mệt mă và lặng lẽ sửa soạn khăn gói trở về quê hương. Ông không dám hé môi nói cho Triều Đ́nh Nhà Thanh biết hai sự đ̣i hỏi của Vua Quang Trung. Sau cái chết của Vua Quang Trung, không c̣n ai có đủ khả năng để "hủy diệt" cái Cổng bị ám ảnh đó cũng như theo đuổi cao vọng đ̣i lại đất tổ ở rất xa phía bắc của cái Cổng này.
Cổng thành được xây để định biên giới Hoa-Việt, dẫu vậy, vẫn c̣n một vài vấn đề chưa được giải quyết hoàn toàn: Chỗ nào ở Ải Nam Quan là nơi đích xác định vị lằn ranh biên giới Trung Hoa và Việt Nam? Có phải là nó nằm ngay bức tường thành Ải Nam Quan hay là nó cách xa vài mét khỏi bức tường thành?
Tài liệu đầu tiên của Việt Nam nói về địa điểm đích xác biên giới Hoa-Việt được ghi chép vào năm 1785 bởi Sứ Thần Nguyễn Trọng Đăng, trưởng phái đoàn của Việt Nam đến Trung Hoa vào những năm trước cũng như vào năm 1784. Vào mùa xuân năm 1785, sau khi trở về từ Trung Quốc, ông có khắc trên một bia đá được dựng tại nhà trọ mang tên là Vọng Đức Đài (Đài hướng về ân đức của vua), sau này gọi là Ngưỡng Đức Đài. Trên bia đá này, ông ghi lại một số biến cố lịch sử về cái Cổng cũng như địa điểm đích xác biên giới Hoa-Việt. Trên tấm bia này, Sứ Thần Nguyễn Trọng Đăng cho biết Cổng Thành được xây do người Trung Hoa vào thời vua Gia Tĩnh Nhà Minh, và ông viết rất rơ ràng địa điểm đích xác biên giới Hoa-Việt chính là ngay Cổng Thành. Cái Cổng thuộc về Trung Hoa, nhưng, từ chân tường của cái Cổng về phía nam th́ thuộc về phần đất của Việt Nam. Ông cũng ghi khắc Vọng Đức Đài được dựng nên do người Việt Nam, thoạt đầu, nó chỉ là một căn nhà lợp mái tranh, sau đó, được cải tiến, và vào mùa hạ năm 1784, đích thân Sứ Thần Nguyễn Trọng Đăng, lúc ấy cũng là quan Tổng Đốc của tỉnh này, đốc công kiến thiết đài này lại với vật dụng xây cất bằng gạch. Năm 1849, Vua Tự Đức (cai trị 1847-1883) sai Sứ Thần Nguyễn Văn Siêu làm trưởng phái đoàn sang Bắc Kinh. Sứ Thần Nguyễn Văn Siêu đọc được tấm bia này, ông cảm động trước những lời được ghi chép trên tấm bia, v́ thế, ông mới ghi chép nó lại và sau này vào năm 1865 ông cho in trong tác phẩm Phương Đ́nh Địa Dư Chí của ông. Tuy nhiên, tấm bia do Sứ Thần Nguyễn Trọng Đăng dựng lên đă bị hủy đi, và cho tới ngày hôm nay, không ai biết nó bị hủy hồi nào và bằng cách nào nữa.
Dưới triều đại Vua Tự Đức, một cuốn lịch sử về các địa danh Việt Nam đă được chính thức hoàn thành bởi các sử gia của nhà vua vào năm 1882. Cuốn sử đó được gọi là Đại Nam Thống Nhất Chí. Trong cuốn sử này, các sử gia cho biết Ải Nam Quan cách khoảng chừng 31 cây số về phía bắc của thị xă Lạng Sơn. Cái cổng có hai phần: Phía bắc của cái cổng được xây dựng bởi người Trung Hoa, và phía nam của cái cổng được xây dựng bởi người Việt Nam. Phần xây cất ở phía bắc gồm một cái cổng và một bức tường 119 trượng (khoảng 500 mét) xây chấn ngang cái dốc của ngọn núi gồ ghề. Cổng và tường thành được xây cất bằng gạch. Cổng và tường thành được xây bởi Nhà Minh vào thế kỷ thứ 16, và nó đă được sửa chữa nhiều lần do Nhà Thanh. Cái Cổng chỉ được mở ra cho các phái đoàn ngoại giao của hai nước. Phần xây cất ở phía nam được xây dựng bởi Việt Nam, là một nhà trọ mang tên là Ngưỡng Đức Đài. Nhà trọ khoảng chừng 20 mét cách xa chân tường Ải Nam Quan. Nhà trọ được dùng để cho phái đoàn Việt Nam dừng chân trước khi họ đi qua Trung Hoa và sau khi họ trở về từ Trung Hoa. Qua sự miêu tả này, rơ ràng biên giới Việt Nam lúc bấy giờ là ở ngay chân tường của Ải Nam Quan.
Một tài liệu bán chính thức khác để góp phần cho kết luận rằng vào thế kỷ thứ 19, biên giới Hoa-Việt ở ngay chân tường Ải Nam Quan. Văn hào Nguyễn Du (1765-1820), một thi sĩ nổi tiếng của người Việt Nam, tác gỉa của tập thơ Truyện Kiều mà cả thế giới đều biết đến, vào năm 1809, đă được vua Gia Long sai làm Sứ Thần trưởng phái đoàn sang Trung Quốc. Ông trở về Việt Nam lại vào năm 1814. Trên chuyến đi từ Việt Nam đến Trung Hoa và từ Trung Hoa trở về Việt Nam, ông đă đi ngang qua Ải Nam Quan. Ông và toàn thể sứ đoàn đă trú ngụ tại Ngưỡng Đức Đài khi đi Trung Quốc cũng như khi từ Trung Quốc trở về lại Việt Nam. Đây là lần đầu tiên trong đời ông nh́n thấy cái Ải, ông ngạc nhiên trước cảnh hùng vĩ và đẹp của nó làm cho ông có cảm hứng viết thành một bài thơ với tựa đề là Ải Nam Quan mà ông mô tả như sau:
Lư Trần cựu sự yểu nan tầm,
Tam bách niên lai trực đáo câm (kim),
Lưỡng Quốc b́nh phân cô lũy diện,
Nhất tâm hùng trấn vạn sơn tâm.
Sử gia Trần Gia Phụng dịch nghĩa như sau:
Việc cũ đời Lư, Trần xa xôi mờ mịt khó t́m,
Suốt từ ba trăm năm thẳng tới bây giờ,
Hai nước (Việt-Hoa) chia đều từ mặt lũy lẻ loi,
Một cửa ải oai hùng trấn đóng giữa ḷng muôn núi.
Theo lời mô tả của thi hào Nguyễn Du th́ rơ ràng bức tường thành của Ải Nam Quan chính là biên giới Hoa-Việt.
Những lời ghi khắc trên bia đá của Sứ Thần Nguyễn Trọng Đăng vào năm 1785, những lời chép lại của các sử gia Triều Nguyễn vào năm 1882, và những lời mô tả của thi sĩ Nguyễn Du vào năm 1809 ăn khít với những chi tiết trong tấm h́nh được chụp bởi nhiếp ảnh gia Heliog Dujardin vào năm 1903, in trong cuốn sách nhan đề L'Indochine (Đông Dương), tác giả Louis Salaun, xuất bản bởi nhà in Quốc Gia, Paris. Trong tấm h́nh này, chúng ta có thể dễ dàng nh́n ra căn nhà trọ mang tên là Ngưỡng Đức Đài ở cách xa bức tường thành Ải Nam Quan khoảng chừng 20 mét. (Xin xem h́nh ở trang 22 phần tiếng Anh)
Trong những thỏa ước bằng khẩu hiệu của Ủy Ban Hoa-Pháp Cắm Cột Mốc Biên Giới Hoa-Việt Thuộc Chi Nhánh Tỉnh Quảng Tây, được viết xuống 5 trang giấy, kư và đóng ấn trên từng trang bởi đại diện của Pháp và của Trung Hoa vào ngày 21/8/1891 như một phần bổ túc cho Hiệp Ước Patenôtre ngày 6/9/1885, có một đọan như sau: "De Nam Quan à Binh Nhi, 1 ère borne: sur le chemin de Nam Quan à Dong Dang (à 100m au sud de la porte)," xin tạm dịch, "Từ Nam Quan đến B́nh Nhi, cột mốc đầu tiên: Trên đường từ Nam Quan tới Đồng Đăng (ngay 100 mét ở phía nam của cái cổng)." Từ nơi tài liệu chính thức này, chúng ta không c̣n nghi ngờ ǵ nữa đó là cột mốc 0 Km ở Việt Nam đă được dựhg lên cách xa bức tường thành của Ải Nam Quan 100 mét phía nam trên đường đi về thị trấn Đồng Đăng.
Những bản đồ được ấn hành vào năm 1945 do Viện Địa Học Quốc Gia của Pháp cho thấy Nam Quan ở trong Việt Nam hay ở ngay chính biên giới của Việt Nam. Chúng ta không nên cắt nghĩa Nam Quan ở đây có nghĩa là cái Cổng mà thôi, mà nên hiểu rằng nó ám chỉ cả một khu vực nơi đây. (Xin coi bản đồ trang 23 và 24 ở phần tiếng Anh.)
Những bản đồ khít hợp với những Thỏa Ước của người Pháp và Trung Hoa vào thế kỷ thứ 19, đó là, biên giới Việt Nam ở ngay chính chân tường của Ải Nam Quan hoặc không cách xa Ải Nam Quan bao nhiêu cả.
Trong cuộc chiến 20 năm với Việt Nam Cộng Ḥa (tức Miền Nam Tự Do, Cộng Ḥa Dân Chủ Việt Nam (tức Cộng Sản Bắc Việt), đă nhận một khối lượng giúp đỡ khổng lồ của CHNDTH. Khi ấy, quan hệ giữa hai Đảng Cộng Sản Việt Nam và Trung Quốc lên tới cao độ. Mao Trạch Đông quá vui vẻ với quan hệ này đến độ đă đề nghị thay đổi Ải Nam Quan thành Mục Nam Quan. Hồ Chí Minh đề nghị thay đổi lại là Hữu Nghị Quan. Tuy nhiên, quan hệ giữa hai đảng không được bền vững lâu, v́, vào tháng 2 năm 1979, cuộc chiến Hoa-Việt bùng nỗ. Sau khi rút quân vào tháng 3 năm 1979, CHNDTQ vẫn đóng giữ và kiểm soát toàn thể khu vực Ải Nam.
Ông Lê Công Phụng, Thứ Trưởng Ngoại Giao của CHXHCNVN, trong bài trả lời phỏng vấn của phóng viên VASC Orient trong chiều ngày 28/1/2002, xác nhận rằng theo Hiệp Ước Biên Giới Hoa-Việt 1999, lănh thổ của Trung Quốc ở cột cây số 0 Km, và theo ông, cột mốc này ở "200 mét phía nam của Ải Nam Quan." Nhiều người nghi ngờ cột mốc ở Ải Nam Quan đă được dời sâu vào lănh địa của Việt Nam trong cuộc chiến Hoa-Việt năm 1979. V́ thế, lời xác nhận của ông Lê Công Phụng là cột mốc 0 Km nằm "200 mét ở phía nam Ải Nam Quan" đă cho thấy rơ đó là CHXHCNVN đă nhường từ 50 mét cho đến 200 mét phần đất biên giới ở Ải Nam Quan cho CHNDTQ.
Song le, trong quá khứ, CSVN nổi tiếng về việc gian dối của họ. Nhiều người nghi ngờ cả vùng Ải Nam Quan đă được cắt nhượng cho CHNDTQ. Họ có những lư do cho sự ngờ vực này. Bác sĩ Trần Đại Sỹ, trong bài điều trần, đă nói rơ v́ ông không được công an CSVN cho phép đi đến Ải Nam Quan, ông lập tức trở về Sài G̣n, lấy máy bay từ Sài G̣n đi thành phố Quảng Châu của tỉnh Quảng Đông, từ Quảng Châu ông lại lấy máy bay đi Nam Ninh, rồi từ Nam Ninh ông thuê xe đi tới thị trấn Bằng Tường đối diện với ải Nam Quan. Một hướng dẫn viên du lịch người Trung Hoa dẫn ông đi qua Cửa Ải sâu thêm vào phía nam khoảng 5 cây số, gần thị xă Đồng Đăng để xem cảnh biên giới mới, và hướng dẫn viên du lịch này cho bác sĩ Trần Đại Sĩ biết đây là phần đất mới của Trung Quốc được "bọn Nam Man" (ám chỉ Việt Nam) nhường cho. Bác sĩ Trần Đại Sĩ điều trần cho biết Ải Nam Quan trong các sách sử đă bị quân đội của CHNDTQ phá hủy trong Cuộc Chiến Hoa-Việt 1979. Cái mà gọi là "Ải Nam Quan" rất huy hoàng "cách 200 mét khỏi lănh thổ Việt Nam" chính là cái cổng và tường thành mới mà do CHNDTQ xây vào thập niên 1980s. Bác sĩ Trần Đại Sỹ cũng cho biết Suối Phi Khanh nổi danh trong lịch sử và văn chương của Việt Nam bây giờ cũng đă nằm trong lănh thổ của CHNDTQ rồi! Lời điều trần của bác sĩ Trần Đại Sỹ ăn hợp với những chi tiết trong các tấm h́nh được chụp cách đây khoảng 100 năm và những tấm h́nh mới vừa được chụp trong những ngày qua. (Xin coi h́nh trang 27 và 28 trong mục tiếng Anh.)
Hơn nữa, lời điều trần của bác sĩ Trần Đại Sỹ cũng ăn khớp với những chi tiết trên bản đồ mới được in ra bởi Viện Địa Học Quốc Gia của Pháp vào năm 2002. Bản đồ này cho thấy một sự thay đổi rất rơ nét, biên giới mới không phải là Ải Nam Quan mà là cạnh thị xă Đồng Đăng, và toàn thể vùng Ải Nam Quan đă nằm trong lănh thổ của CHNDTQ. (Xin coi h́nh trang 29 trong mục tiếng Anh.)
Không cần biết sự nhượng đất cho CHNDTQ là 100 mét hay 5 kilômét ở biên giới Hoa-Việt, nhất là vùng đất linh thiêng Ải Nam, đó là một sự mất mát lớn lao đối với người Việt Nam, là một cái tát tai vào sự tự trọng và tự hào của người Việt, là một sự mất mát giá trị lịch sự và văn chương mà đối với người Việt Nam rất là trân quư vô vàn. Đau hơn nữa, những người dân ở vùng này, trước đây là "người Việt" phải đổ máu ra chống quân Trung Hoa bảo vệ giang sơn, th́ tự dưng, trong một cái nháy mắt, họ lại phải làm "con dân" của kẻ cựu thù Trung Hoa mà họ không thể làm ǵ được hơn!
Lời Kết:
Năm 1867, Nhà Nguyễn không đánh lại người Pháp v́ người Pháp có súng đạn tối tân nên vua Tự Đức sai hai ông Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp kư hiệp ước với người Pháp nhượng 3 tỉnh Nam Kỳ cho thực dân Pháp. Sau biến cố này, Vua Tự Đức đă làm một bài thơ, vừa trách ḿnh, trách các trọng thần, và cũng vừa trách cả toàn dân đă nhu nhược để cho ngoại bang cướp đất. Bài thơ của vua Tự Đức được đăng trong Tự Đức Ngự Chế Thi Tập. Bài thơ ấy như sau:
Khí dân Triều trữ cữu
Măi Quốc thế gian b́nh,
Sử ngă chung thân điếm,
Hà Nhan nhập miếu đ́nh.
Có người dịch câu thơ ấy như sau:
Tội lũ bay: bán nước,
Tội triều đ́nh: bỏ dân,
Khiến đời ta mang nhục.
Mặt nào gặp tiền nhân?
Vua Tự Đức v́ không đủ vũ khí tối tân đánh lại người Pháp, đă phải cắt một phần đất của tổ tiên cho người Pháp, lương tâm cắn rứt bồi hồi, ông ngày đêm lo âu, trăn trở, đấm ngực ăn năn, t́m cách làm sao phục hồi lại những phần đất đă mất. Tuy ông không làm được, nhưng, ông cũng đă có ư và cố gắng hết ḿnh. Không biết ĐCSVN nay nhượng những phần đất linh thiêng và chiến lược ở biên giới Hoa Việt, lương tâm của những người CSVN có bị áy náy không, có phải trăn trở đấm ngực ăn năn như vua Tự Đức hay không? Nếu có, hăy trả lại quyền tự quyết cho dân tộc Việt Nam. Nếu ĐCSVN không chịu ăn năn và trả lại quyền tự quyết cho dân tộc, th́, cũng giống như thời nhà Nguyễn, các cụ nhà ta đă đứng lên làm cách mạng đấu tranh giành Độc Lập cho nước nhà, thế hệ Việt Nam ngày nay cũng sẽ làm giống y như vậy.
C̣n người dân và sĩ phu Việt Nam th́ sao, đứng trước sự ngoan cố và đàn áp của ĐCSVN, không lẽ chúng ta không c̣n hào khí anh dũng để tràn xuống đường đ̣i lại đất tổ tiên, nhất là vùng Ải Nam linh thiêng trong hàng bao ngh́n năm lịch sử? Hăy nh́n dân Kyrgystan (diện tích 198,500 km2) theo bản tin của Đài Á Châu Tự Do (Radio Free Asia = RFA) loan tải vào ngày 18/5/2002, khi nghe tin nhà cầm quyền của họ cắt nhượng cho Trung Cộng khoảng 120 ngàn hectares núi đồi hoang vắng không người ở ngay biên giới, lập tức, đám đông hơn vạn người xuống đường ở thủ đô Biskek đ̣i Tổng Thống Askar Akayev phải trả lời cho họ một cách minh bạch về chuyện này, kẻo không, chế độ của Tổng Thống Askar Akayev phải ra đi để cho những người xứng đáng hơn lên cầm quyền bảo vệ giang sơn của tổ tiên, dầu giang sơn đó bây giờ là "nơi khỉ ho c̣ gáy" hoang vu không làm ǵ được. Tổng Thống Askar Akayev cho công an trấn áp dân chúng một cách dă man, nhưng càng trấn áp, dân chúng càng hăng hái hơn, càng quyết tâm hơn. Một vùng đất hoang vu không người ở mà người dân Kyrgystan, với dân số có 5 triệu, mà c̣n anh dũng tranh đấu, huống chi chúng ta, một vùng đất linh thiêng cả bao ngàn năm máu xương đă đổ ra, 85 triệu dân trong nước và 3 triệu dân ở hải ngoại mà lại làm thinh? Tôi tin rằng chắc chắn dân Việt sẽ không làm thinh, v́, lời của nhà cách mạng anh hùng Nguyễn Trải c̣n vang vọng lại trong tai của mỗi người Việt Nam: "nước Việt ta, dù thăng trầm có lúc khác nhau, nhưng hào kiệt thời nào cũng có./."
Houston Texas ngày 25/5/2002.
-- HẬN NAM QUAN THỄ DZIỆT SẠCH CỘNG NÔ (Việt_Nhân@Filsons.com), October 30, 2004.
" QUE HUONG LA CHU`M KHE NGOT " tài lieu tu ba'o chi' cu?a PHA'P ! csvn dang que huong cho tàu cong !! http://www.lexpress.fr/info/monde/dossier/vietnam/dossier.asp? ida=420449
-- saobui (pdl0001@yahoo.fr), October 31, 2004.
" QUE HUONG LA CHU`M KHE NGOT "Nếu "" QUE HUONG LA CHU`M KHE CHUA " th́ bọn sán lăi nô bộc đâu dâng quan thầy "Tàu Phù" .Chỉ tiếc thương cho dân Việt ,một khi VN thuộc Tàu th́ không được phép nói tiếng Việt nữa .
-- thich du thu (toollovers@comcast.net), October 31, 2004.