Chiến Tranh Bản Chất và Mục Đích [ Phần3 ]greenspun.com : LUSENET : Vietnamese American Society : One Thread |
Chiến Tranh Bản Chất và Mục Đích.
D. Chiến Tranh, Phương Tiện Hoàn Hảo Thực Hiện Chủ Nghĩa Cộng Sản Ḥa ước Trùng Khánh kư ngày 28/2/1946 giữa Pháp và Trung Hoa đă cho Pháp tiến quân lên phía trên vĩ tuyến 16 thay thế Quốc Quân Trung Hoa giải giới Nhật. Đổi lại Pháp nhượng cho Trung Hoa đường xe lửa Lào Kay - Vân Nam, trả lại các tô giới cũ và hứa ưu đăi Hoa kiều ở Đông Dương. Thâm ư của Trung Hoa (Tưởng Giới Thạch) là rút quân về dồn lực tiêu diệt Trung Cộng đang được Nga giúp tiếp thu đất Măn Châu từ tay Nhật, và dùng tay Pháp trấn áp Cộng Sản Việt Nam rồi làm phên dậu che an toàn mặt biên giới phía Nam cho Trung Hoa. Sự rút quân Trung Hoa khỏi Việt Nam đă làm cho Việt Quốc và Việt Cách mất một thế dựa và sau đó bị Cộng Sản bao vây tiêu diệt nếu không kịp tháo chạy sang Tàu. Tuy nhiên đó là một may mắn vô cùng đối với người Cộng Sản. Từ nay họ được rộng tay hành động đối với thời địch bây giờ là thực dân Pháp và đối với tối hậu địch nhân là các đảng phái Quốc Gia Việt Nam. Trước một kẻ thù chung của cả dân tộc là thực dân Pháp đang cố tâm tái lập nền bảo hộ, người Cộng Sản đă lớn tiếng hô hào thống nhất ư chí, thống nhất lực lượng với khẩu hiệu “Tổ Quốc Trên Hết”, “Đoàn kết để kháng chiến chống ngoại xâm”. Bằng những kỹ thuật tuyên truyền khôn khéo Cộng Sản đă kích động được t́nh tự yêu nước của toàn dân, đặc biệt ở tầng lớp thanh niên đầy nhiệt t́nh và lư tưởng. Bằng sự lư luận ngụy biện, Cộng sản đă đưa ra một tiền đề của tam đoạn luận đầy sai lạc “Đánh Pháp là yêu nước”. Họ không định rơ lư do đánh Pháp trên lập trường nào, nhưng với ḷng yêu nước bồng bột mọi người đă nhắm mắt chấp nhận không thắc mắc, như chấp nhận tiền đề đầy sai lạc này là: đă ủy nhiệm toàn quyền hành động cho Cộng Sản trong vai tṛ lănh đạo cuộc chiến. Các đảng phái quốc gia bị đẩy vào một t́nh thế khó khăn, tiến thoái lưỡng nan. Nếu chống Cộng là bị mang tiếng là phản động chia rẽ, làm Việt gian tiếp tay với thực dân Pháp phản đồng bào, bán nước - đó là một điều sỉ nhục lớn nhất đối với những người đă từng hiến dâng cuộc đời cho lư tưởng Quốc Gia, Dân Tộc, từng chấp nhận chết chóc, tù đày, đánh đập, hành hạ, đói rét, nghèo khổ ... Nếu chống Pháp để thực hiện lư tưởng hằng đeo đuổi và phù hợp với “nguyện vọng của toàn dân”, tránh được tiếng Việt gian bán nước đầy ô nhục, th́ tất yếu phải gia nhập hàng ngũ kháng chiến, chịu sự lănh đạo của Cộng Sản. Và cộng tác với Cộng Sản là một việc cực kỳ nguy hiểm, mà những người có kinh nghiệm đấu tranh đều đă ít nhiều thể nghiệm bằng xương máu của chính ḿnh và các đồng chí. Cộng tác, liên hiệp với Cộng Sản chỉ có hai điều có thể xảy ra: Một là bị Cộng Sản nhuộm đỏ, có giá trị như sự đầu hàng, để trở thành Cộng Sản phục vụ tổ chức Cộng Sản quốc tế, coi tổ quốc, dân tộc chỉ là phương tiện như: Bồ Xuân Luật, Đinh Chương Dương của Việt Cách ... Hai là bị thủ tiêu trong bí mật hay là bị chụp mũ gián điệp, Viêt gian, bị hủ hóa để làm nhục rồi cũng bị giết đi để trừ hậu họa, có giá trị như một sự tự sát vô ư thức. Với các lănh tụ đảng phái quốc gia đă nổi danh, đa số chọn giải pháp tiêu cực. Họ không chấp nhận Pháp, cũng không theo Cộng Sản. Họ chạy ra ngoại quốc hoặc trốn tránh nằm im đợi thời. Dưới cái nh́n tích cực của người đấu tranh cách mạng, th́ đó là thái độ bất lợi, gây nhiều ngộ nhận, dễ bị lên án ... Như mọi người đă thấy qua những bài báo, sách vở xuất hiện cả hai phía Cộng Sản và Tự Do. Nhưng nếu nh́n ra cái thế kẹt của người Quốc Gia nằm trên đe dưới búa, đứng giữa hai lằn đạn thù của hai thế lực quốc tế, đó là Cộng Sản đế quốc thực dân mới, và Pháp đế quốc thực dân cũ, tất sẽ thông cảm nỗi đau nhục, xót xa này của những người muốm làm một cái ǵ, nhưng bị mắc cứng trong sự trói buộc của Thời và Thế, chỉ có thể an ủi như Ngô Thời Nhiệm, người lỡ thời, thất thế trả lời Đặng Trần Thường kẻ đắc thời, đắc thế và đầy tự măn khi ra câu đối: * - Ai Công hầu, ai Khanh Tướng, trong trần ai, ai dễ biết ai ! (Đặng Trần Thường) * - Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế (Ngô Thời Nhiệm) Người Cộng Sản cố mềm mỏng trong việc điều đ́nh với Pháp để mua thời gian củng cố lực lượng và phát triển cơ sở tổ chức. Cộng Sản đă kư hiệp định sơ bộ ngày 8/3/1946 với Pháp, thừa nhận sự đóng quân của Pháp trên lănh thổ Việt Nam. Với hiệp ước này, Cộng Sản đă bị người Quốc Gia chỉ trích và quần chúng mất tin tưởng. Dư Luận đă xôn xao, nghiêm khắc lên án kết tội Việt Minh là kẻ rước Pháp vào tái lập chế độ thực dân, như xưa Hồ Chí Minh đă từng cộng tác với mật vụ Pháp để điềm chỉ bắt người Quốc Gia, nên thời đó có thơ rằng: “Đánh tan cái lũ bất nhân, Đánh tan cái lũ rước quân Pháp về. Cùng nhau hẹn một lời thề, Đă làm cách mạng chẳng hề sợ chi. Nhớ lời mạnh bước chân đi Diệt quân Cộng Sản bỏ khi cực ḷng” Và ngay cả những người thiên tả trong nhóm thợ thuyền Việt Nam tại Pháp cũng tỏ lộ sự phẫn nộ, công khai đă kích Hồ Chí Minh. Tờ Paria xuất bản tại Ba Lê vào những ngày đầu tháng 7/1946, đă đăng một bức thư ngỏ gởi Hồ Chí Minh như sau: “Chúng tôi một số đồng chí ít ỏi do chính đồng chí (Hồ Chí Minh) đào tạo 1925. Những “tư tưởng?” của đồng chí đă thấm sâu vào chúng tôi. Chúng tôi xem đồng chí như biểu tượng cho tất cả tầng lớp thợ thuyền Việt Nam trẻ. Chúng tôi không ngờ lại phải mất hết hy vọng sau thỏa ước 8/3. Đồng chí đă kư một thỏa ước chấp nhận tự trị mà không phải độc lập. Sức mạnh ḷng tin tưởng của chúng tôi đặt vào nơi đồng chí là lănh tụ phong trào cách mạng phản đế, cũng ngang ngửa với ḷng căm phẫn của chúng tôi. Chúng tôi lấy làm xấu hổ là đă chọn lầm lănh tụ, nhưng nhân dân Việt Nam không bao giờ tuyệt vọng. Chúng tôi sẽ tiếp tục con đường đồng chí đă chọn nhưng đă không noi theo đến cùng”. Hội nghị Đà Lạt họp vào tháng 4 và tháng 5/1946 và Fontainebleau vào tháng 3 tháng 7, 8 và tháng 9/1946 để cố gắng sửa lại thiếu sót đó, để đ̣i hỏi hoàn toàn độc lập cho Việt Nam đă bị thất bại. Hồ Chí Minh đích thân đi Ba Lê vận động qua đường dây Cộng Sản Pháp nhưng cũng không xong. Sợ mất quyền lực chính trị với quần chúng, họ Hồ đành phải kư một Tạm Ước với tổng trưởng Pháp Quốc Hải Ngoại, Marius Moutet, đảng viên xă hội (đă quen biết họ Hồ từ hai mươi năm qua) vào ngày 14/9/1946. Tạm Ước này chỉ là sự tái xác nhận nhiều đặc quyền của thực dân Pháp trên lănh thổ Việt Nam. Trào lưu chính trị thế giới đă biến đổi với sự h́nh thành của các thế lực siêu cường và những vùng ảnh hưởng. Người Pháp đại diện bằng De Gaulle và các chính khách thực dân vẫn chủ quan nuôi tham vọng tái lập toàn vẹn thuộc địa, được gọi là Pháp Quốc Hải Ngoại. Chính sách duy tŕ toàn vẹn đế quốc thực dân dưới danh hiệu mới Liên Hiệp Pháp được chấp thuận tại hội nghị Brazzaville, thủ đô Congo thuộc Pháp vào tháng 4/1945, mà sự áp dụng đầu tiên là cuộc tái chiếm Nam Bộ Việt Nam. Với chính lược đă quy định, việc Pháp tái chiếm Việt Nam chỉ là vấn đề thời gian. Trong hoàn cảnh cực kỳ khó khăn cho Cộng Sản, ngoài th́ bị kẻ thời địch là thực dân Pháp lấn át, đ̣i những điều kiện không thể chấp nhận được, trong th́ bị những đảng phái quốc gia lật mặt nạ chỉ trích và dân chúng bắt đầu nghi kỵ là thỏa hiệp bắt tay với Pháp, Tổng Đảng Bộ Cộng Sản sau những suy tính hơn thiệt đă chấp nhận giải pháp chiến tranh như con bài gỡ thế bí. Hồ Chí Minh hạ lệnh “Tiêu Thổ Kháng Chiến”. Súng nổ vào tối ngày 19/12/1946. Với chiến tranh người Cộng Sản lấy lại được uy thế chính trị, nắm được hào quang chính nghĩa quốc gia. Chiến tranh như một phương tiện tuyệt hảo được người Cộng Sản dùng để thực hiện mục tiêu ngắn hạn thuộc chiến thuật, cũng như những mục tiêu dài hạn nằm trong chiến lược và cả những mục tiêu tối hậu nằm trong chính lược toàn cầu của Cộng Sản quốc tế, Cộng Sản luôn luôn tâm niệm dùng cách mạng bạo lực để thực hiện một chế độ vô sản chuyên chính. Chém giết là phương tiện tốt nhất để trấn áp chống đối và đạt thắng lợi, trong một xă hội mà bản chất đấu tranh và sinh tồn giữa những con người làm nên giai cấp xung đột nhau trong mối tương quan Quyền, Lực. Với người Cộng Sản chủ trương chiến tranh toàn diện để đạt được mục đích, tối hậu của chiến tranh là hoàn toàn tiêu diệt được quân địch với tất cả năng lực Công cũng như Thủ và không để kẻ thù khôi phục tiềm năng, v́ ḥa b́nh chỉ được coi là một giai đoạn chuẩn bị cho cuộc chiến tranh sắp tới. Trong cuộc chiến tranh Pháp Việt 1945-1954, chiến tranh đă là một duyên cớ chính đáng được Cộng Sản triệt để vận dụng để biện minh cho những hành động áp chế dân chúng của họ, quần chúng đă cúi đầu chấp nhận chiến tranh như chấp nhận số phận hẩm hiu của chính họ. Với chiến lược tiêu thổ kháng chiến, người Cộng Sản đă cho lệnh đốt phá thẳng tay nhiều thành phố, cầu cống, nhà máy trước khi rút lui. Nằm trong chiến lược trên, Cộng Sản cũng đă lùa dân triệt để tản cư về thôn quê, ra ngoại thành. Dụng ư xấu xa của Cộng Sản khi cho đốt phá triệt hạ các thành phố và lùa dân đi không chỉ đơn thuần trong mục tiêu quân sự là: Di tản chiến thuật tạo khó khăn cho quân Pháp, không cho chúng xử dụng các cơ sở, tiện nghi vật chất để làm chiến tranh, cũng không chỉ đơn thuần nhằm mục tiêu chính trị giai đoạn: Tranh thủ dân với Pháp để Pháp không có dân cai trị và xử dụng trong các dịch vụ ... Đành rằng các mục tiêu kể trên là những mục tiêu thực tế và cấp thời, v́ yếu tố cơ bản để làm chiến tranh là nhân dân. Không có dân không có chiến tranh, không có dân không có người cầm súng. Không có dân không có lương thực nuôi quân. Không có dân không có t́nh báo để thấu triệt t́nh địch. Không có dân không có chổ nương náu an toàn. Dân là nước và quân là cá. Nhưng hành động đốt phá thành phố của Cộng Sản nó c̣n mang thêm một ư nghĩa cao hơn của chính lược Cộng Sản: vô sản hóa quần chúng bằng chiến tranh, chuẩn bị nền móng khai quang đất địa để xây dựng chế độ vô sản chuyên chính. Người dân thành phố sau khi bị cắt đứt với những liên hệ tài sản của họ ở thành thị, họ chỉ c̣n hai bàn tay trắng, và họ phải lệ thuộc vào chính quyền về đồng lương nếu họ là công chức, về thuế khóa nếu là người dân buôn bán. Họ trong t́nh trạng vô sản tất sẽ dễ dàng chấp nhận những biện pháp cải cách của chính quyền Cộng Sản hơn cả những nông dân thiếu ăn, thiếu mặc nhưng thừa đầu óc tư hữu.
-- Lấy Ư Nhân Thắng Cường Bạo (Việt_Nhân@Filson.Com), December 16, 2004
Sau khi Mao Trạch Đông thống nhất Hoa Lục, tuyên bố thành lập chế độ Cộng Ḥa Nhân Dân vào ngày 1/10/1949, Cộng Sản Việt Nam cũng để lộ nguyên h́nh, họ không cần dùng tới mặt nạ ngụy trang quốc gia như trước nửa. Với họ, tư tưởng Quốc Gia Dân Tộc bị kết án là hẹp ḥi, lạc hậu và ... phản động. Ḷng yêu nước chân chính (suy nghĩ theo kiểu Cộng Sản) phải là phục vụ lư tưởng Cộng Sản và giai cấp vô sản quốc tế. Đảng Cộng Sản được tái lập với danh xưng mới: Đảng Lao Động Việt Nam vào ngày 3/3/1951. Chủ trương của đảng được sửa đổi lại, không chỉ chú trọng đánh đế quốc thực dân Pháp (Phản Đế) như những ngày đầu kháng chiến khi đảng c̣n yếu, phải giải tán và Cộng Sản phải đội danh Quốc Gia. Họ đă kết hợp đồng thời phản Đế với phản Phong (tức đánh phong kiến, cường hào ác bá, tư sản mại bản ... ). Sự xuất hiện của Đảng Lao Động là nguyên nhân trực tiếp của những vụ học tập chính trị, đường lối trong bộ máy quân đội, bộ máy chính quyền và các tổ chức quần chúng. Đảng đă thiết kế và điều động thi hành những vụ thanh trừng, thủ tiêu, đấu tố khủng khiếp sau đó tại những vùng Cộng Sản kiểm soát, trong mục đích bần cùng hóa nhân dân và thủ tiêu những phần tử có tư tưởng Quốc Gia đang nắm những chức vụ chỉ huy trong các tổ chức chính quyền, quân đội và quần chúng để diệt trừ hậu họa.
Được sự giúp đỡ tận t́nh của Cộng Sản Trung Cộng như một hậu phương lớn, vững chắc và an toàn, Cộng Sản Việt Nam đă phản công Pháp và dần dần đẩy Pháp vào thế bị bao vây. Sự chênh lệch đă quá rơ rệt khi đem cân lực lượng đôi bên, giữa thế lực quốc tế đang lên là Cộng Sản và thế lực đă suy tàn của đế quốc thực dân Pháp sau Đệ Nhị Thế Chiến.
Ngày 20/7/1954 Pháp và Việt Minh kư hiệp định Genève chia đôi Việt Nam, trên Vĩ Tuyến 17 Cộng Sản tiếp tục công việc đang làm dang dở qua phương tiện chiến tranh: Cải tạo nhân dân, cải tạo xă hội mà điển h́nh là cuộc cải cách ruộng đất thực hiện từ 1953 - 1956 với trên nửa triệu người dân bị Cộng Sản giết chết oan uổng, v́ những ư niệm mơ hồ trong một nội dung co dăn như Địa Chủ, Phú Nông, Tư Sản ... V́ những tội danh chụp mũ như: hút máu mủ nhân dân, chống phá cách mạng, Việt gian bán nước ... để bắt ép cả nước vững chắc tiến nhanh, tiến mạnh lên Xă Hội Chủ Nghĩa, bảo đảm hoàn tất tốt đẹp nghĩa vụ quốc tế vô sản được Mạc Tư Khoa giao phó: là tiền đồn của Xă Hội Chủ Nghĩa.
4). Chiến Tranh Và Người Pháp
A. Những Thời Điểm Đáng Ghi Nhớ.
Ngày 16/6/1940 Đức chiếm Ba Lê. Thống chế Pétain được sự ủy nhiệm của quốc hội Pháp để cộng tác với Đức, thành lập chính phủ Vichy. Đức để cho Pháp giữ nguyên các thuộc địa. Jean Decoux, Tư Lệnh Hạm Đội Viễn Đông được cử làm toàn quyền Đông Dương thay tướng Catroux bỏ theo phe kháng chiến De Gaulle.
Ngày 25/4/1944 lực lượng kháng chiến của De Gaulle theo chân Đồng Minh vào giải phóng Ba Lê. De Gaulle cử Đô Đốc Thierry D'Argenlieu làm Cao Ủy kiêm Tổng Tư Lệnh quân đội Pháp tại Đông Dương. Nhưng v́ những khó khăn chính trị De Gaulle tự ư rút lui, Georges Bidault lên làm thủ tướng. Sự rút lui của De Gaulle không thuần lư do nội bộ mà c̣n có những lời hứa tốt đẹp đối với các thuộc địa khi De Gaulle c̣n cần sự giúp đỡ về nhân lực và vật lực của các thuộc địa để kháng chiến chống Đức (Thủ đoạn chính trị này lại được thấy vào năm 1973 sau khi Mỹ và Việt Cộng kư hiệp định Ba Lê. Tổng Thống Richard Nixon phải từ nhiệm v́ vụ Watergate. Nh́n dưới khía cạnh chính trị, đây chỉ là một vụ trốn thi hành những mật ước mà Mỹ đă hứa với Việt Cộng như: viện trợ tái thiết cầu cống, cơ sở kỹ nghệ và Kinh Tế. Bằng chứng dù bị báo chí bôi bẩn, Nixon vẫn được Tổng Thống Reagan chính thức nhờ đại diện đi dự đám tang của Tổng Thống Saddat và lănh những sứ mạng đặc biệt đi Trung Cộng).
Tháng 4/1945, hội nghị Brazzaville tại thủ đô Congo thuộc Pháp, quyết định chính lược của Pháp chấp nhận canh tân, nhưng vẫn duy tŕ đế quốc dưới danh hiệu Liên Hiệp Pháp.
Cuối tháng 8/1945, Anh đổ quân giải giới Nhật theo hiệp ước Postdam từ vĩ tuyến 16 trở xuống. Với sự đồng ư và sự giúp đỡ của Anh, Pháp đă theo chân Anh vào tái chiếm Nam Bộ Việt Nam.
Ngày 28/2/1946 Pháp kư hiệp ước Trùng Khánh với Trung Hoa và thay thế Quốc Quân Trung Hoa giải giới Nhật từ trên vĩ tuyến 16 trở lên.
Ngày 6/3/1946 Sainteney đại diện D'Argenlieu kư với Hồ Chí Minh và Vũ Hồng Khanh hiệp định sơ bộ. Hiệp định này thừa nhận quyền đóng quân của Pháp trên lănh thổ Việt Nam thay quân Trung Hoa. Do đó ngày 18/3/1946 sư đoàn cơ giới của Tướng Leclerc và bộ binh Pháp từ Hải Pḥng lên đóng tại Hà Nội.
Trong hai tháng 4 và 5/1946, hội nghị Đà Lạt bàn tiếp về hiệp định sơ bộ. Nguyễn Tường Tam làm trưởng phái đoàn, Vơ Nguyên Giáp làm phụ tá. Hội nghị bế tắc v́ thái độ cứng rắn của Pháp.
Ngày 4/6/1946 Pháp tách rời Nam Bộ, đưa bác sĩ Nguyễn Văn Thinh làm thủ tướng lập chính phủ Nam Kỳ tự trị.
Trong ba tháng 7, 8 và 9/1946 hội nghị Fontainebleau tiếp tục, hội nghị Đà Lạt bàn về hiệp định sơ bộ cũng bế tắc và ngày 12/9 một số nhân viên phái đoàn Việt Nam bỏ về nước trước.
-- Lấy Ư Nhân Thắng Cường Bạo (Việt_Nhân@Filson.Com), December 16, 2004.
Ngày 14/9/1946 một ḿnh chủ tịch nhà nước là Hồ Chí Minh đến gặp riêng Bộ Trưởng Moutet tại tư gia vào nửa đêm để kư bản tạm ước tái xác nhận hiệp định sơ bộ 8/3/1946.
Ngày 20/11/1946 Pháp đánh chiến Hải Pḥng.
Ngày 19/12/1946 chiến tranh Việt Pháp bùng nổ.
Ngày 5/6/1948 hiệp định Hạ Long được kư kết. Cao Ủy Bollaert đại diện Pháp long trọng tuyên bố thừa nhận Việt Nam độc lập trong Liên Hiệp Pháp. Cựu Hoàng Bảo Đại, chỉ định thiếu tướng Nguyễn Văn Xuân lập chính phủ trung ương lâm thời. Giải pháp Quốc Gia đă được người Pháp nói đến từ lâu nay mới được thành h́nh.
Ngày 8/3/1949 thỏa ước Elyseé kư giữa tổng thống Pháp Vincent Auriol và cựu hoàng Bảo Đại tái xác nhận hiệp định Hạ Long, thừa nhận Việt Nam độc lập trong liên hiệp Pháp.
Ngày 20/7/1954 chiến tranh kết thúc bằng hiệp ước Genève giữa Pháp và Việt Minh chia đôi Việt Nam bằng vĩ tuyến 17.
5). Những Sai Lầm Chính Lược Của Pháp
Sau Đệ Nhị Thế Chiến, đế quốc thức dân Pháp hoàn toàn suy yếu, trong một bối cảnh thế giới đă có những đổi thay tận gốc rễ với những thế lực đang h́nh thành và chia vùng ảnh hưởng. Sự thân thiết có tính chiến lược của Mỹ với Nga qua Roosevelt và Stalin đă nói lên sự kém vế của Anh, Pháp dù được xếp vào hàng cường quốc. Chủ nghĩa thực dân đă trở thành lỗi thời và là mục tiêu công kích của toàn thế giới với sự hổ trợ của hai siêu cường Mỹ (tự do), Nga (Cộng Sản). Nh́n được trào lưu chính trị của thời đại, Anh đă khôn khéo sớm trao trả độc lập cho các thuộc địa và chân thành cộng tác với họ để thành lập khối thịnh vượng chung Liên Hiệp Anh. Trái lại, Pháp c̣n muốn cố gắng duy tŕ đế quốc thực dân, dùng thuộc địa như những phương tiện hữu hiệu để phục hồi mẫu quốc Pháp đă bị tàn phá sau những năm bị Đức chiếm đóng. Hội nghị Brazzaville đề ra chính lược tương lai của Pháp là lỏng tay hơn đối với các thuộc địa, chấp nhận canh tân nhưng vẫn duy tŕ thuộc địa dưới danh hiệu mới là Liên Hiệp Pháp. Bằng chứng là Pháp có riêng một bộ coi về thuộc địa được gọi một cách hoa mỹ là Bộ Pháp Quốc Hải Ngoại. Bằng chứng nửa là De Gaulle đă phải rút lui để tránh không thực hiện những ǵ đă hứa với các thuộc địa và khi có những khuynh hướng cấp tiến trong chính trường muốn Pháp bắt chước Anh thực tâm trao trả độc lập cho các thuộc địa, th́ chính De Gaulle lại ra thông báo nghiêm khắc cảnh cáo: “Người Pháp nào làm cho nước Pháp mất đi một phần lănh thổ trong Pháp Quốc Hải Ngoại, th́ sớm muộn cũng bị xét xử trước ṭa án tối cao”.
Pháp ngoan cố muốn đi ngược lại tiến tŕnh hướng thượng của nhân loại, với một chủ nghĩa thực dân đă lỗi thời được ngụy trang dưới chiêu bài “khai hóa” đă bị tố cáo và lật tẩy, Pháp đă bị chống đối đương nhiên bởi các thuộc địa, là đối tượng để công kích của toàn thể loài người yếu và của thế lực quốc tế nay đă trở thành siêu đế quốc thực dân kiểu mới (kiểu Cộng Sản).
6). Pháp Sai Lầm Chiến Lược Trong Cuộc Chiến Đông Dương 1945-1954
Trong tầm mức chiến lược, Pháp đă sai lầm nghiêm trọng trên cả hai phương diện chính trị lẫn quân sự. Sự thua trận của Pháp chỉ là một kết quả đă thấy trước và tất yếu phải đến (hiện tại Pháp đă và đang sai lầm một lần nửa trên phương chính trị khi tự cho ḿnh là siêu cường và muốn đối đầu với Hoa Kỳ, khi pháp bắt tay với Trung Cộng đối đầu với Mỹ trên bàn cờ chiến lược tại Á Châu).
A). Phương diện chính trị
V́ thiếu một chính lược đúng đắn nên thái độ chính trị của người Pháp cũng trở nên bất nhất. Nền Đệ Tứ Cộng Ḥa Pháp với những chia rẽ nội bộ và là những chính phủ yếu kém đă là nguyên do chính của thái độ chính trị không dứt khoát đó. Pháp đă thật sự thất bại trong việc tạo một chiêu bài Quốc Gia cho cuộc chiến tranh chống Cộng Sản. Bộ mặt thực dân quá lộ liễu của Pháp đă đẩy một số lớn dân chúng Việt Nam về phía Cộng Sản và làm cho những người Quốc Gia Việt Nam bị bế tắc. Họ bị chết đứng giữa hai gọng kềm Thực Dân - Cộng Sản và họ là điểm ngắm giữa hai lằn đạn thù.
Giải pháp Quốc Gia đă được giới chính trị lẫn quân sự Pháp đề cập đến từ lâu, nhưng chỉ thành h́nh vào ngày 5/6/1948 với khuôn mặt Bảo Đại. V́ sự không thực tế với người Pháp và thêm vào đó là sự phá hoại của Cộng Sản Pháp tại ngay nghị trường, điển h́nh là dân biểu Cộng Sản Maurice Thorez (Maurice Thorez một cấp trên của Hồ Chí Minh, được Stalin giao quyền trông coi Đông Dương Cộng Sản Đảng khi Hồ Chí Minh bị gọi về Mạc Tư Khoa khiển trách về vụ Xô Viết Nghệ Tĩnh 1930 - 1932, đă tố cáo Bollaert với âm mưu làm sao ép buộc được cả năm quốc gia Đông Dương vào Liên Hiệp Pháp ngay khi Bollaert được đề cử làm Cao Ủy Đông Dương ngày 5/3/1947) đă làm cho chiêu bài Quốc Gia mà họ dựng lên, thiếu hấp dẫn đối với những người Cách Mạng có tinh thần Quốc Gia đă có thành tích chống Cộng và chống cả thực dân Pháp. Chiêu bài Quốc Gia đó cũng kém hấp dẫn ngay cả những người dân Việt Nam đang khao khát một nền độc lập, tự do và ḥa b́nh cho tổ quốc.
Không phải Pháp không có những người nh́n ra sự cần thiết phải có một chính nghĩa Quốc Gia để chống lại Cộng Sản, trong một cuộc đấu tranh chính trị để tranh thủ quần chúng, nhưng những người nh́n được vấn đề, đưa được giải pháp lại không phải là những người nắm nhiệm vụ giải quyết vấn đề. Hơn ai hết, với hơn 80 năm kinh nghiệm đô hộ Việt nam, người Pháp tất hiểu tinh thần đấu tranh kiên cường của những đảng phái cách mạng ra sao!. Và cũng hơn ai hết, những người Pháp có kinh nghiệm cai trị tất hiểu rằng Cộng Sản đă e sợ và thù ghét người Quốc Gia như thế nào!. V́ trên bản chất, người Việt Nam Quốc Gia với lư tưởng “Tổ Quốc Trên Hết” đă, đang và vĩnh viễn sẽ là kẻ thù của bất cứ thế lực xâm lược nào dù lộ liễu, lạc hậu như đế quốc thực dân kiểu cũ , dù họ có trá h́nh khôn khéo dưới một chủ thuyết (Cộng Sản) được tôn xưng là khoa học, là đỉnh cao trí tuệ như siêu đế quốc thực dân kiểu mới.
V́ e sợ giải pháp Quốc Gia được trao phó cho những Người Quốc Gia Chân Chính (người quốc gia chân chính là những người không thỏa hiệp, không nhân nhượng, không xem tổ quốc ḿnh như một món hàng để trao trao đổi) nên Cộng Sản đă xuống tay thủ tiêu nhà văn Khái Hưng, đảng viên của Đại Việt Dân Chính Đảng năm 1947. Nhà văn Nhượng Tống, đảng viên Quốc Dân Đảng bị ám sát năm 1947. Nguyễn Văn Sâm, sáng lập viên phong trào Quốc Gia Thống Nhất bị bắn chết tại Sài G̣n năm 1947. Bác Sĩ Trương Đ́nh Tri, Chủ Tịch Hội Đồng An Dân Bắc Việt, bị bắn chết tại Hà Nội năm 1947 (Bác Sĩ Trương Đ́nh Tri đă từng làm Bộ Trưởng Y Tế trong chính phủ Hồ Chí Minh năm 1945) và c̣n biết bao nhiêu các đảng viên trung kiên và ṇng cốt của các đảng phái Quốc Gia khác, đă bị Cộng Sản cầm tù, tra tấn, xử bắn với tội danh Cộng Sản gán cho họ là Việt gian bán nước, trong mục đích bôi xấu các đảng phái Quốc Gia rồi có cớ giết đi để trừ hậu họa.
Năm 1948, vụ phá hoại chiến hạm Amio D'Inville ở Sầm Sơn (Thanh Hóa) là một vụ phản gián của t́nh báo Cộng Sản phá giải pháp Quốc Gia, khi Pháp cố liên lạc với các đảng phái Quốc Gia t́m người cộng tác. Hoàng Đạo, một tên gián điệp Cộng Sản mạo danh đại diện của Việt Nam Dân Tộc Cách Mệnh Đảng (một đảng có thành tích chống Cộng quyết liệt ở Thanh Hóa, Ninh B́nh, Nam Định đă bị Cộng Sản đàn áp, bắt giam cả ngàn đảng viên), để điều đ́nh với Pháp tổ chức một cuộc nổi dậy bằng vơ trang ở Liên Khu IV với sự yểm trợ của Pháp ở vùng biển. Hoàng Đạo có nhờ Pháp mang gia đ́nh về Hải Pḥng trên chiến hạm Amio D'Inville. Những va ly hành lư chứa toàn chất nổ của gia đ́nh Hoàng Đạo đă gây thiệt hại khá nặng cho chiếc tàu này.
Trong một cuộc công du Hoa Kỳ để yêu cầu tăng quân viện vào ngày 20/9/1951, Đại Tướng De Latre de Tassigny, Cao Ủy Kiêm Tổng Tư Lệnh Pháp tại Đông Dương, đă đề cao sự hy sinh của quân Liên Hiệp Pháp đang giúp đỡ quân đội Quốc Gia Việt Nam chống kẻ thù chung của thế giới tự do là Cộng Sản. Nhưng báo chí Mỹ đă chỉ trích Pháp và đặt câu hỏi: Tại sao những người Việt Nam chiến đấu cho tổ quốc họ khỏi họa Cộng Sản, khi tử trận người Pháp lại đề trên mộ họ những hàng chữ ô nhục “Mort pour la France” (chết cho nước Pháp? ! )
Chiến tranh cũng cần có khôn khéo như trong chính trị, nghĩa là cũng cần những lư do chính đáng để biện minh cho hành động. V́ như một tiến tŕnh, chiến tranh chỉ là một sự kế tiếp của đấu tranh chính trị, dưới h́nh thức bạo lực trên một tầng cấp cao có tính cách quyết liệt, triệt để và toàn diện.
B) Phương Diện Quân Sự
Thiên Thời, Địa Lợi và Nhân Ḥa là những yếu tố cần thiết để tạo nên sự chiến thắng. Nhưng không phải lúc nào ba yếu tố đó cũng đi với nhau. V́ đó mà kẻ tài trí phải tranh, phải mượn, phải tạo, phải đợi ... để đạt chiến thắng. Và xét cho cùng, địa lợi là việc quan trọng hơn cả đối với việc dùng binh. Có một yếu tố địa lợi là cũng đủ thắng người, tranh hơn với thiên hạ. Địa Lợi là thứ phải tranh mới được, không như Thiên Thời phải chờ mới có, không như Nhân Ḥa phải tạo mới thành. Nói đến chiến tranh tất nói đến trận mạc với cách thế hành quân đánh địch, thủ thành. Chiến tranh phải căn cứ thực tế đất địa mà ứng biến thích nghi. Người xưa vẫn thường nói Trận Địa là có ư đó. Có thể khẳng định là không có đất địa, không có trận thế ... và do đó có thể nói nguyên do thất trận của Pháp ở Việt Nam là Pháp đă không nh́n ra được bản chất và thực lực của đối thủ để từ đó chọn chiến trường, chọn lối đánh và ấn định thời gian dứt điểm.
Nếu người Pháp nh́n ra được vùng tam giác Hồng Hà và vùng Thanh Hóa như là đất tranh và dùng toàn lực để tranh và giữ vùng đó, th́ cuộc chiến Đông Dương sẽ ra sao?
Đất Tranh theo binh pháp của Tôn Tử là vùng đất mà ta chiếm được th́ ta lợi lớn, địch chiếm được th́ địch cũng lợi vô cùng, đất tranh v́ thế không thể nhường, mà phải xuất tận lực nhanh tay mà lấy.
Những ngày đầu của chiến tranh, lực lượng của Cộng Sản không có ǵ đáng so sánh với quân đội Viễn Chinh Pháp, thế mà Pháp không biết lợi dụng ưu thế để tốc chiến tốc thắng, Pháp đă để cho Cộng Sản lấy thời gian mua không gian, “dùng thời gian như thần hộ vệ của kẻ yếu như Clausewitz một chiến lược gia Âu Châu đă nhận định”. Cốt nhiên vấn đề không thuần quân sự, nhưng nếu nắm được vùng đông dân cư thuộc sông Hồng và Thanh Hóa, tức là nắm được nguồn tiếp tế chiến tranh, người và vật lực của Cộng Sản. Dân chúng cũng giống như nước, ở bầu th́ tṛn, ở ống th́ dài. Hiểu được bản chất bất định của quần chúng, Cộng Sản đă đổ khuôn, đóng dấu quần chúng bằng chiến dịch tản cư để lùa dân về vùng do Cộng Sản kiểm soát, đó là Cộng Sản đă phá cái thế Địa Lợi của Pháp.
Nếu những ngày đầu của chiến tranh Pháp chiếm trọn vùng đông dân cư châu thổ sông Hồng và sông Mă, rồi vơ trang cho các đảng phái và tôn giáo để chống Cộng Sản, như Pháp đă làm tại vùng châu thổ sông Cửu Long, với giáo phái Cao Đài, Ḥa Hảo ... th́ Cộng Sản không thể vẫy vùng một ḿnh một chợ. Nhưng Pháp đă để uổng phí cơ hội tốt đó, đến lúc Pháp nh́n ra được vấn đề là phải gom dân giữ đất, th́ mọi việc đă quá chậm. Cộng Sản đă có cả một hậu phương vĩ đại tiếp tế nhân sự, vũ khí, lương thực đó là lục địa Trung Cộng. Kể từ đó, Cộng Sản (Tàu và Việt Cộng) bắt đầu phản công Pháp và đánh bật Pháp ra khỏi những đất sát biên giới Việt - Hoa mà Pháp đă tốn công sức rải quân trấn đóng từ những ngày đầu của cuộc chiến Đông Dương. Để cứu văn t́nh thế, Pháp cử Đại Tướng De Latre làm Cao Ủy kiêm Tổng Tư Lệnh quân đội Liên Hiệp Pháp tại Đông Dương vào tháng 12/1950. Với tài năng quân sự, De Latre đă chận được địch, giải tỏa áp lực địch quanh vùng tam giác sông Hồng Hà và gây nhiều tổn thất nặng nề cho địch. Vơ Nguyên Giáp được lịnh phải trở về du kích chiến. Tài năng của De Latre được biểu lộ rơ rệt nhất trong các trận: Tô Vũ ở vùng Ḥa B́nh, với cách nhử địch để diệt địch. Trận non nước Ninh B́nh, chống chiến thuật cài răng lược của Cộng Sản và hệ thống pháo đài bê tông dây thép gai bảo vệ hữu hiệu vùng châu thổ. Nhưng v́ lư do sức khỏe, De Latre phải trở về Pháp chửa bệnh vào cuối năm 1951 và chết vào đầu năm 1952. Cùng với cái chết của De Latre niềm hy vọng giữ vững miền châu thổ sông Hồng Hà như ngọn đèn tàn đă lóa lên rồi tắt liệm ...
Chiến dịch đổ bộ Bùi Chu, Phát Diệm với ư định giúp Thiên Chúa Giáo tự trị cũng thất bại v́ quá chậm. chỉ được thực hiện vào năm 1952, nghĩa là vào lúc t́nh thế đă ung thối đến tột độ.
Cuối cùng chuyện đến đă đến, Pháp thua trận nhưng được an toàn rút khỏi Việt Nam bằng hiệp ước Genève 20/7/1954, dù Cộng Sản Việt Nam không muốn ngưng chiến mà muốn tiếp tục khai thác lợi thế của chiến thắng. Nhưng v́ quyền lợi của Cộng Sản quốc tế, Nga và Tàu trong những giăng mắc với Anh và Pháp nên Cộng Sản Việt Nam phải buộc ḷng chấp nhận. Trong cái nh́n chung của các cường quốc Nga, Tàu, Anh, Pháp trước mặt họ c̣n một thế lực khác đáng sợ hơn, đó là siêu cường Hoa Kỳ. Và như một chân lư ngàn đời trong chính trị không có ǵ là tuyệt đối, không có Bạn, không có Thù, chỉ có những mối tương quan được tạo dựng nên bởi quyền lợi và uy lực.
7). Kết Luận
Tóm lại, chiến tranh với bản chất ngụy trá, tàn nhẫn, phá hoại và giết chóc đă là một phương tiện để thực hiện nhiều mục đích tùy theo sự mưu tính của người hoạch định. Như đă dẫn chứng, người Cộng Sản Việt Nam đă dùng chiến tranh như một phương tiện hữu hiệu để tiêu diệt người Quốc Gia Việt Nam. Khẩu hiệu “Tổ Quốc Trên Hết”, “Đoàn kết kháng chiến chống Pháp” chỉ là một chiêu bài chính trị không có thực chất. Thực dân Pháp chỉ là một lư do để biện minh cho những hành động tàn ác, mà Cộng Sản dùng để áp chế dân chúng và tiêu diệt các đảng phái Quốc Gia trong tiến tŕnh xây dựng vô sản thế giới theo đúng đường lối vạch ra của Đệ Tam Quốc Tế. Cứ nh́n những khẩu hiệu của họ đưa ra từng giai đoạn th́ tất rơ. Từ “Phản Đế” họ tiến tới “Phản Phong”. Từ chống Pháp, họ tiến tới tiêu diệt giai cấp phản động và những sự cộng tác ngấm ngầm lén lút của người Cộng Sản với thực dân Pháp từ hồi c̣n xa xưa để tiêu diệt người Quốc Gia, đều là những yếu tố buộc tất cả mọi người chúng ta phải suy đi nghĩ lại về bản chất tráo trở của Người Cộng Sản và về những ǵ họ đă phạm tới Tổ Quốc Việt Nam, với Dân Tộc Việt Nam, khi người Cộng Sản coi nước ṇi như một phương tiện để xử dụng, chứ không như một cứu cánh cần phục vụ và một lư tưởng phải tôn thờ. Hơn 50 năm qua Cộng Sản xây dựng miền Bắc, miền Bắc vẫn đói khổ, gần 30 năm “giải phóng” miền Nam, miền Nam đă trở thành điêu tàn và sa đọa !.
Đọc lịch sử không chỉ đơn thuần để ḷng cười khóc với những buồn vui của người xưa, để thả hồn trôi lênh đênh qua những hưng phế thăng trầm của thời đại. Đọc lịch sử mang một ư nghĩa tích cực hơn nhiều. Đọc sử là học hỏi, suy ngẫm, bàn luận nguyên do đă tác động làm nên những biến chuyển lịch sử, để rồi lại ứng dụng vào những hoàn cảnh tương tự trong tương lai, thể hiện di huấn ngàn đời “Con phải hơn cha ... để rạng rỡ giống ṇi”. Những thế hệ cha anh của chúng ta, v́ những bất lực của bản thân, v́ những khó khăn của thời cuộc, đă để lỡ một vận hội. C̣n chúng ta, những thế hệ Việt Nam trưởng thành trong máu lửa đấu tranh sẽ làm ǵ trước hiện t́nh thê thảm của đất nước, trước nỗi thống khổ của toàn dân?. Đất nước sẽ bị diệt vong nếu chúng ta không sáng suốt nh́n ra vấn đề, gát bỏ mọi thành kiến, chung lưng góp sức cứu nguy cho dân tộc. Trung Quân là t́nh cảm riêng tư của mỗi người, nhưng phải biết Ái Quốc. Đó là lời của Án Anh bề tôi của nước Tề trả lời với nước Sở khi nghe tin Tề Vương chết … Nghĩa Công phải trên T́nh Riêng … mong thay !.
* - V́ ấu trĩ, thờ ơ, u tối
* - V́ muốn an thân, v́ tiếc máu xương
* - .................
* - Mấy ai người đem hết tâm can ?
* - Trước quân thù (Cộng Sản) hung hiểm gian ngoan
* - Biết bao kẻ mơ hồ mong hưởng lạc !
* - Nghĩ tới ngày mai ḷng ta tan tác
* - ........................
* - Ai đứng dậy diệt trừ lũ qủy ?
* - Ai trái tim lân mẫn vạn dân tàn
(V́ Ấu Trĩ - Thơ Vô Đề - 1975)
Trần Chính Trung
HOME
-- Lấy Ư Nhân Thắng Cường Bạo (Việt_Nhân@Filson.Com), December 16, 2004.